Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị: tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn, khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm những điều tội lỗi...
Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, trong khi nhiều tôn giáo, tín ngưỡng dân gian khác đã phải chịu cảnh long đong, bị kết tội “mê tín dị đoan” nhưng tín ngưỡng thờ tổ tiên đã và vẫn chiếm được vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Ý thức “con người có tổ, có tông” được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, dù họ sống trên tổ quốc mình hay lưu vong nơi xứ người. Đặc biệt đây là hình thức tín ngưỡng được các thể chế chính trị (Nhà nước) từ xưa đến nay trân trọng thừa nhận, dù rằng với những mức độ khác nhau. Cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, nó là sự bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con người Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi người dân VN. Thông qua việc thờ cúng tổ tiên nó thể hiện ý thức về cội nguồn; dấy lên lòng hiếu thảo nhân nghĩa và nó còn có ý nghĩa về mặt tâm linh.
Nói tới ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là nói tới sự thể hiện ý thức nhớ về cội nguồn của mỗi một người con đối với ông bà, tổ tiên, đối với cội nguồn dân tộc. Tổ tiên theo quan niệm của người Việt Nam, trước hết là những người cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ... là người đã sinh ra mình. Tổ tiên cũng là những người có công tạo dựng nên cuộc sống hiện tại như các vị "Thành hoàng làng" các "Nghệ tổ". Không chỉ thế, tổ tiên còn là những người có công bảo vệ làng xóm, quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm như Trần Hưng Đạo đã thành "Cha" được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng năm. "Tháng 8 giỗ cha" ở rất nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Ngay cả "Thành hoàng" của nhiều làng cũng không phải là người đã có công tạo dựng nên làng, mà có khi là người có công, có đức với nước được các cụ xa xưa tôn thờ làm "thành hoàng". Tổ tiên trong tín ngưỡng của người Việt Nam còn là "Mẹ Âu Cơ", còn là "Vua Hùng", là người sinh ra các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam. Nhân dân ta có câu:
“Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”
Câu ca dao trên đã nói lên phần nào ý thức thức nhớ về cội nguồn của dân tộc ta thông qua việc thờ cúng tổ tiên. Mỗi một con rồng cháu lạc cứ đến ngày này thì lại tưởng nhớ tới các vua hùng những người đã có công dựng nước và giữ nước. Như vậy có thể thấy rằng nhờ có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mà chúng ta đã không thể nào lãng quên đi nguồn gốc, cội nguồn của mình, thông qua đó mỗi người dân VN dù có đi đâu về đâu thì vẫn luôn ghi nhớ nguồn gốc của mình, luôn ý thức được trách nhiệm của mình đối với quê hương đất nước sao cho xứng với ông bà tổ tiên của mình.
Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mang ý nghĩa tâm linh, thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập "mối liên hệ" giữa người sống với người chết, giữa người ở thế giới hiện tại và thế giới tâm linh. Là sự thể hiện quan niệm về nhân sinh của người Việt Nam: "sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn". Với người Việt Nam, chết chưa phải là hết, tổ tiên lúc nào cũng ở bên cạnh người sống, "như tại" trên bàn thờ mỗi gia đình, động viên, trợ giúp cho con cháu trong cuộc sống thường ngày. Nếu như tôn giáo thường tuyệt đối hóa đời sống tinh thần, hướng con người về thế giới siêu thoát, thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tuy có hướng con người về với quá khứ, song lại rất coi trọng hiện tại và tương lai.
Người việt quan niệm linh hồn tổ tiên luôn hiện diện bên con cháu, chết không phải là hết, chết không có nghĩa là vĩnh viễn không tồn tại mà vẫn còn mối liên hệ nào đó đối với người còn sống dường như vẫn vô hình sống bên cạnh những người thân của mình. Giữa họ vẫn tồn tại mối liên hệ thật gần gũi thân thiết mà thật khó lý giải.
Thời gian cúng giỗ là những ngày húy kỵ của tổ tiên, những ngày lễ, tết trong năm. Ngoài ra, việc cúng giỗ tổ tiên cũng được tổ chức vào những ngày trong gia đình có sự kiện quan trọng như lấy vợ, làm nhà, tậu trâu, thi cử, đi xa, nhà có người ốm đau... nhằm mục đích trình báo với gia tiên về những sự kiện quan trọng này.
Thông qua nghi lễ thờ cúng tổ tiên, người Việt Nam gửi gắm tình cảm biết ơn đồng thời dấy lên lòng hiếu thảo nhân nghĩa đối với tổ tiên, với những người đã khuất. Thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ lòng hiếu thảo, đạo ông bà chẳng qua là sự tiếp nối của đạo hiếu. Họ tin rằng sau khi mất, ông bà tổ tiên không hoàn toàn biến mất mà vẫn còn mối liên hệ với con cháu nên phận làm con phải lo trọn chữ hiếu, phải thực hiện những bổn phận như ông bà, tổ tiên còn sống. Nhân dân ta có câu "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" hay câu ca dao "Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu".
Trong mỗi gia đình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần dần trở thành đạo lý "uống nước nhớ nguồn", thành "đạo hiếu". Đạo hiếu là cái gốc của mỗi con người. Công cha, nghĩa mẹ như núi cao, nước nguồn cho nên phải hiếu thảo với cha, mẹ khi còn sống, thành kính, biết ơn, tiếc thương khi cha, mẹ khuất núi về với tổ tiên. Lòng hiếu thảo là giá trị đạo đức quý báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam.