Thứ nhất, về giáo lý – giáo luật
Giáo lý và các quy định của đạo Hồi rất nghiêm ngặt cho toàn thể tín đồ Hồi giáo trên thế giới. Đối với một tín đồ Hồi giáo thì “năm hành vi tôn giáo” có tính bắt buộc để mỗi tín đồ chứng minh mình là người Hồi giáo - người có niềm tin duy nhất vào thánh Alla. Năm hành vi tôn giáo bắt buộc đó là: Lễ nguyện Salat (Mỗi tín đồ cầu nguyện 5 lần một ngày); Tháng chay Ramanda; Zakah (Bố thí); Haji (Hành hương về thánh địa Mecca); Jihad (Thánh chiến để bảo vệ Hồi giáo) Người Chăm Bàni do ảnh hưởng truyền thống chuộng hoà bình của dân tộc và các chính sách phù hợp đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước nên việc thực hiện năm hành vi tôn giáo đã được cải biến:
- Tin tưởng Thượng đế Allah là tối cao duy nhất, và Muhammad là sứ giả cuối cùng của Allah, là người khai sáng Islam.
- Mỗi ngày đêm phải cầu nguyện đủ 5 lần.
- Phải ăn chay trọn tháng Ramadan.
- Phải bố thí để giúp đỡ người khó khăn hơn mình.
- Nếu có khả năng thì ít nhất một lần trong đời hành hương về thánh địa Mecca (Saudi Arabia) để làm lễ Haji (4).
Người Chăm Bàni tin vào Allah như một đấng tối cao nhưng không phải là duy nhất. Họ vẫn tôn thờ các vị thần trong tín ngưỡng truyền thống như Thần Mưa, Thần Núi, Thần biển... Họ vẫn thực hiện các nghi lễ nông nghiệp theo tín ngưỡng dân gian như lễ cầu xin thần Mẹ Xứ Sở (Rija Nưgar), lễ cầu mưa (Yor Yang), lễ cầu thần Sóng Biển (Plao Pasah), lễ chặn dầu nguồn (Kap Hlâu Krong)... Người Chăm Bàni cầu nguyện 3 lần/ ngày; không nhịn ăn ban ngày vào tháng Ramưwan mà chỉ có giáo sĩ nhịn ăn ba ngày đầu tháng mà thôi. Họ cũng không hành hương tới thánh địa La Mecque.Tính bản địa trong Hồi giáo của người Chăm ở nước ta được xuất phát và gìn giữ bởi nền tảng văn hoá truyền thống Chămpa cổ.
Thứ hai, về tổ chức, chức sắc, cơ sở thờ tự
Chăm Bà ni không có tổ chức giáo hội chung cho toàn đạo mà nó hình thành tổ chức theo đơn vị Thánh đường trong các làng Chăm. Đứng đầu mỗi thành đường Bà ni là một vị Thầy cả hay Sư cả. Về cơ cấu tổ chức, đạo Hồi Chăm Bani có một đội ngũ các tu sĩ, chức sắc, họ am hiểu và có kinh nghiệm về các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, vừa có uy tín bên đạo và có uy tín bên đời. Chức sắc Chăm Bani là đội ngũ theo chế độ cha truyền con nối, gồm có 4 cấp.
- Sư cả: là cấp cao nhất, là người quyết định hầu hết mọi vấn để đời sống tôn giáo của tín đồ
- Mum: là cấp thứ hai, là người điều khiển các buổi lễ tại các đền thờ, thông hiểu kinh Koran, có đạo đức tốt và có khả năng kinh tế
- Khotip: còn gọi là Tip, là cấp thứ ba, đảm nhận một số nghi lễ tại các đền thờ hoặc tư gia mà không đảm nhiệm việc giảng giáo lý
- Chang: là cấp cuối cùng, là những người mới gia nhập tầng lớp tu sĩ
Các cơ sở thờ tự của đạo Bani gọi là chùa (thánh đường), đình trong đó chùa là nơi các tu sĩ ở và tế lễ vào những ngày lễ, còn đình là nơi tín đồ thường xuyên đến tễ lễ. Các chùa và đình được xây dựng đơn giản, hình thức bên ngoài và cách bố trí bên trong có sắc thái riêng mang tính địa phương không giống như các thánh đường Hồi giáo khác trên thế giới. Chùa thường được mở vào tháng Ranuwan (là tháng Ramadan của Hồi giáo nhưng đồng thời có thêm vào những tín ngưỡng địa phương của người Chăm), hiện nay toàn đạo Bani có 17 chùa Tổ chức của đạo Bani chủ yếu ở từng chùa, mỗi chùa ngoài Sư cả (Cả chùa) và các vị chức sắc chăm lo việc đạo, đều có thêm ban cai quản chùa, ban cai quản chùa có nhiệm vụ chăm lo đời sống tôn giáo cho tín đồ, Tổng sư cả là người được các sư cả suy tôn, có uy tín lớn trong đạo. Chức sắc Chăm Bà ni có nhiều quyền lợi vật chất và tinh thần, chi phối đến sinh hoạt tín ngưỡng và đời sống xã hội của tín đồ. Do chịu ảnh hưởng của chế độ đẳng cấp Balammon, vai trò của các chức sắc Chăm Bà ni đối với tín đồ rất lớn.
Thứ ba, đối với người phụ nữ
Giáo lý Hồi giáo có những quy định khắt khe đối với phụ nữ trong hôn nhân và vai trò của họ trong gia đình và xã hội. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo trong cộng đồng người Chăm ở Việt Nam đối với người phụ nữ khá dung hoà trong quan hệ giới và quan hệ xã hội.
Tùy theo luật pháp và phong tục tập quán của mỗi dân tộc, cũng như do sự biến chuyển của lịch sử, số phận của phụ nữ Hồi Giáo cũng thay đổi nhưng đạo Hồi vẫn quyết định phần lớn số phận của họ. Họ phải che kín toàn thân khi ra đường, chỉ được hưởng ½ tài sản so với đàn ông, giá trị phụ nữ trước pháp luật chỉ bằng ½ so với đàn ông, không được ngoại tình …. Tuy nhiên phụ nữ Chăm Bà ni không bị những quy định quá ngặt nghèo chi phối như phụ nữ ở các quốc gia Hồi giáo khác, kể cả là những người Chăm ở Nam Bộ được coi là những người Chăm Hồi giáo chính thống.
Trong gia đình, người phụ nữ lớn tuổi vẫn rất được coi trọng. Nó thể hiện truyền thống mẫu hệ còn ảnh hưởng khá mạnh đến đời sống tộc người. Ở đây, người phụ nữ không chỉ giữ vai trò chủ đạo trong quản lý kinh tế và điều phối các hoạt động trong gia đình mà còn có vai trò trụ cột trong đời sống tâm linh và tinh thần nói chung. Người phụ nữ Chăm Hồi giáo ở thành phố Hồ Chí Minh không chỉ là người nội trợ mà còn là người buôn bán rất giỏi, là công nhân, ca sĩ, giáo viên, giảng kinh Qur,an ở thánh đường và nhà riêng. Họ không phải cấm cung, được học hành và giao tiếp rộng rãi, không phải mang mạng che mặt, mặc áo dài tay hay có người lớn đi kèm khi ra đường... như phụ nữ ở các quốc gia Hồi giáo khác (7). Các quy định của giáo lý Hồi giáo trong người Chăm ở Việt Nam đã bị bản địa hoá nhiều, có hướng mở cho phụ nữ Chăm trong quan hệ gia đình và xã hội.
Thứ tư, về lễ nghi tôn giáo:
Một số nghi lễ tôn giáo Hồi giáo của người Chăm ở Việt Nam đã bị bản địa hoá, giản lược và mang nhiều yếu tố tín ngưỡng cổ truyền:
+ Nghi lễ thành niên
Hồi giáo quy định nghi lễ thành niên đối với mọi thành viên trong xã hội. Nghi lễ này nhằm chứng nhận một người đã đến tuổi trưởng thành hay có quyền kết hôn. Đối với nam giới phải thực hiện nghi lễ làm cuộc tiểu phẩu ở bộ phận sinh dục là cắt bao quy đầu bằng dao sắc (lễ Khotan), đối với nữ giới cũng phải chịu lễ rạch màng trinh bằng dao sắc có sát trùng (lễ Karơh). Tuy nhiên, khi đạo Hồi truyền bá vào người Chăm ở Việt Nam nó đã bị giản lược đi nhiều, chỉ còn mang tính tượng trưng kể cả với cộng đồng người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ gần gũi với Islam chính thống.
Người Chăm theo Hồi giáo ở Việt Nam quy định con trai, con gái đến 15 tuổi là coi như bước vào tuổi trưởng thành. Họ phải thực hiện nghi lễ thành đinh. Khi thực hiện nghi lễ Khotan cho nam giới (Nghi lễ này đã được dịch là Katat đối với người Chăm Bani ở Bình Thuận), nhiều chàng trai thực hiện một lần. Họ phải dựng một chiếc lều đơn giản ở khu vực khuất nẻo trong làng, trải chiếu trên đó bày một bộ đồ pha trà, một ít trà khô và thuốc lá, một tô to đầy nước và trứng vịt để thày Achar làm lễ. Đến giờ hành lễ, các chàng trai phải tập trung trước cửa lều, thầy Achar gọi lần lượt từng người vào làm lễ. Ông cầu kinh, một tay cầm bao quy đầu của chàng trai, một tay cầm thanh tre cật đã được chuốt mỏng hoặc một con dao đưa qua đưa lại ở đầu dương vật của người chịu lễ. Sau đó, thày Achar lấy một quả trứng vịt xoa vào chỗ vừa giả vờ cắt. Đây chỉ là nghi lễ tượng trưng, mô phỏng động tác thực sự cắt bao quy đầu của người chịu lễ Khotan truyền thống Hồi giáo. Qua nghi lễ này, có thể thấy quá trình đạo Hồi chính thống bị pha loãng trong xã hội truyền thống của người Chăm để trở thành Hồi giáo Bani, nghi lễ Khotan hà khắc của Hồi giáo chính thống (cắt da bao quy đầu thật sự) đã thích nghi với xã hội Chăm và trở thành một nghi thức mang tính tượng trưng.
Nữ giới cũng phải tham gia nghi lễ thành niên gọi là Karơh. Nghi thức này đối với nữ giới cũng mang tính tượng trưng so với các quốc gia Hồi giáo chính thống. Lễ này cũng được làm tập thể cho các cô gái trong vùng. Họ phải làm hai cái rạp: Cái lớn thờ thánh Allah, cái nhỏ để các cô gái chịu lễ thay quần áo và ở đó trong suốt thời kỳ làm lễ. Các thiếu nữ không được ra ngoài với bất kỳ lý do gì. Người làm lễ này gồm có thầy chính gọi là Po Grù, hai thầy phụ gọi là Imưn. Sau một đêm trôi qua, các cô gái mặc quần áo chỉnh tề mới bước ra rạp nhỏ. Họ sang rạp lớn chờ các thầy ban phép. Chỗ các thầy làm lễ ban phép có một cái bát lớn đựng nước phép và một cành lá thơm, một cái kéo. Đến giờ làm lễ, các thầy đọc kinh, rồi ra hiệu cho từng người một vào quỳ đối diện với thầy chính (Pô-Grù). Thầy để vào lưỡi người thiếu nữ vài hạt muối, rồi lấy kéo cắt một ít tóc trên đỉnh đầu và cho uống một ngụm nước phép. Sau đó người nhà dâng lễ ăn sáng cho các thầy. Khi vào dâng lễ, người nhà và họ hàng phải mặc toàn đồ trắng tượng trưng cho sự trinh bạch đến chào người thiếu nữ vừa chịu lễ xong.
+ Tục thờ cúng tổ tiên
Người theo Hồi giáo chỉ có một niềm tin duy nhất là: “Tin tưởng Thượng đế Allah là tối cao duy nhất, và Muhammad là sứ giả cuối cùng của Allah, là người khai sáng Islam”. Tuy nhiên, người Chăm ở Việt Nam (đặc biệt là người Chăm Bàni ở miền Trung Việt Nam) vẫn còn lữu giữ và coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Họ quan niệm những người trong gia đình, khi mất đi vẫn có ảnh hưởng rất nhiều tới những người còn sống. Trách nhiệm này người Chăm giao cho người đàn ông đã thành niên (đã trải qua lễ Katat). Cùng với những người anh em trai của mình và những người đàn ông là anh em ruột của mẹ mình, họ chịu trách nhiệm chăm lo đời sống tâm linh và xử lý mọi công việc của gia đình cha mẹ và gia đình những người chị gái ruột đã tách hộ ở riêng nhưng vẫn giữ việc thờ cúng tổ tiên chung tại gia đình mẹ. Người đàn ông thành niên chịu trách nhiệm trình báo, xin phép tổ tiên của gia đình mẹ mình khi có những việc lớn trong nhà như làm nhà, dựng vợ gả chồng, ma chay hay trong các dịp lễ tết cổ truyền. Cho dù sau này lập gia đình, sang ở nhà vợ thì người đàn ông Chăm Hồi giáo Bani vẫn phải có trách nhiệm với việc cúng tế tại gia đình mẹ và gia đình các chị em gái mình mỗi khi có việc cần.
Lễ Tảo mộ là một trong 5 nghi thức của chuỗi lễ hội Ramưwan, nó giống như tiết thanh minh của người Việt. Lễ hội tảo mộ diễn ra trước tháng ăn chay Ramưwan 3 ngày, bắt đầu từ ngày mùng Một tháng Chín của lịch Hồi giáo. Tảo mộ là nghi thức cúng viếng ông bà, tổ tiên. Trước đó từ ngày 25 tháng 8 lịch Islam, các làng Chăm Bani bắt đầu đi rãy mả (tảo mộ), rước vong linh ông bà tổ tiên về nhà, lập bàn thờ tạm, tổ chức lễ cúng ông bà trước khi đưa lên Chùa (Thánh đường Hồi giáo). Tháng Ramưwan kết thúc bằng lễ ra chùa, còn gọi là lễ xả chay. Từ nghi lễ tưởng nhớ trong đạo Hồi, đến với cộng đồng người Chăm, nó trở thành nghi lễ tưởng nhớ và thờ cúng tổ tiên mạng đậm văn hoá truyền thống bản địa Đông Nam Á.