Bởi thế nên một bài thơ, một câu chuyện, một cuốn tiểu thuyết cũng có thể gợi cho con người biết bao suy nghĩ về cuộc sống. Đó cũng là trường hợp trong bài thơ trào phúng "Tiến sĩ giấy". Từ hình tượng “tiến sĩ giấy” ta chiêm nghiệm về lẽ danh - thực trong cuộc sống.
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè chẳng kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bàng
Nét son điểm rõ mặt anh khôi.
Tấm thân xiêm áo sao coi nhẹ?
Cái giá danh khoa thế mới hời
Ghế chèo lọng xanh ngồi bành choe
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi
Tiêu đề bài thơ là "Tiến sĩ giấy" và cả tám câu trong bài thơ cũng là dành để miêu tả vẻ ông tiến sĩ ấy nhưng đằng sau đó là những hàm ý sâu sắc. “Tiến sĩ giấy” nghĩa là một ông tiến sĩ đồ chơi làm bằng giấy, tức cũng là một ông tiến sĩ “hàng mã”. Nó mô phỏng theo hình tượng một ông tiến sĩ thật nào đó ngoài đời, được làm ra để bán cho nhân dân thường là nhằm mục đích cúng tế. Hình tượng ông tiến sĩ hiện lên chân thực với cờ, biển, cân đai; với xiêm áo, lọng xanh, ghế chéo, vinh dự trong lễ xướng danh, có nghĩa là một ông tiến sĩ giấy được miêu tả hết sức chính xác với ngoài đời. Nó làm cho người ta dễ nhầm tưởng như chính tác giả đã buông ra “lời thú nhận” về cái nhầm của mình; “Tưởng rằng đồ thật hoá đồ chơi”. Thì ra vậy, anh tiến sĩ giấy mang đầy đủ những đặc điểm của một ông tiến sĩ đích thực ngoài đời nhưng có một điểm thì không thể nào thay đổi đó lả vì làm bằng giấy nên anh ta nhẹ phèo và rỗng tuếch.
Vịnh về “tiến sĩ giấy” Nguyễn Khuyến đã mang đến cho người đọc những liên tưởng thú vị trong cuộc sống ở thời đại của ông. Bằng cách nói hàm ý, Nguyễn Khuyến đã dựng lên bức chân dung của những tên “tiến sĩ giấy” đang tồn tại ở ngay trong đời thực. Trong cái thời đại “mua danh bán tước” của "Năm mới chúc nhau", một anh nghè dù đã được xướng danh ở khoa thi Ất Dậu cũng chỉ là một thử "ông cứ ngẩng đầu rồng" tội nghiệp. "Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai", cũng “thân giáp bàng” cũng áo xiêm, cũng “ghế chéo lọng xanh” nhưng làm nên chúng chỉ là “tẩm giấy làn nên thân giáp bàng". Bài thơ mang một tầng nghĩa khác sâu xa.
Nguyễn Khuyến đã không ngần ngại đưa ra đề tỏ thái độ mỉa mai, khinh bỉ những tiến sĩ có danh mà không có thực, những ông tiến sĩ không những làm bằng giấy mà còn rỗng ruột. Nó phản ánh một thực tế trong xã hội bấy giờ khi tước vị có thể mua bán bằng tiền bạc và những kẻ đại diện cho tri thức và trí tuệ của xã hội lại là nhưng kẻ leo lên bằng con đường không chính đáng. Bởi thế nên mới có chuyện đằng sau vẻ hào nhoáng không thua kém ai đến mức khiến người tã tưởng rằng đồ thật thì hóa ra lại chỉ như một thứ đồ chơi mà thôi. Chỉ là một thứ danh hão và hoàn toàn vô nghĩa. Câu chuyện của thời xưa đến nay vẫn hiện lên đầy nhức nhối.
Xưa nay kể có danh để không “nát với cỏ cây” thường hiếm. Vì hiếm nên quý. Quý nên được ngưỡng vọng, tôn kính. Giàu có chưa là gì. Quyền thế chưa là gì so với danh vọng, danh tiếng. Chính thế mà chữ danh luôn luôn là nỗi khao khát của biết bao người. Con người ta thường đến với chữ danh bằng năm bảy đường khác nhau: Người thì dựa vào tài đức của chính mình; kẻ cậy nhờ vào tiền tài, thể lực của người khác; người thì lưu danh nhờ những công trình lợi dân, ích nước; kẻ để tiếng bằng những thủ đoạn sâu xa. Nhưng có lẽ cách thông dụng nhất là từ con đường học tập: học để thành tài, để có dịp đem cái tài ra phụng sự đất nước, “ích quân trạch dân” rồi danh tiếng sẽ tự đến, sẽ lưu truyền đời này sang đời khác, thành tên đất, tên làng... tồn tại cùng trời đất. Vì thế, chỉ cần có thực tài thì hiển nhiên là sẽ có danh. Tài cao, đức trọng, lĩnh hội được mệnh trời thì có danh lợi.
Tài hèn, sức mọn thì chỉ cần sống cho ra một con người, cũng là có danh rồi, Cái “thực” trong trường hợp này chính là tự biết mình không có tài cao. Danh là thế, thực là thế, từ cổ đã thế, tưởng mãi về sau vẫn thế. Nhung bắt đầu từ khi chữ danh đi kèm với chữ lợi, với quyền lực thì cái thuận trình trên kia bị đảo ngược, vốn bắt đầu từ sự ghi nhận, suy tồn của mọi người, chữ danh trở thành vật có thể chiếm đoạt, mua bán với không ít người. Nó bị biến thành một thứ giả trang hào nhoáng, dễ lòe bịp, che đậy những toan tính tầm thường. Giờ đây không phải thực tại tạo ra danh tiếng mà là tiền, vàng, là thói xu thời hèn nhát, là sự vô đạo không bị nguyền rủa. Khi đã không bắt đầu từ tài (thực cái mình có) thì cái thứ danh khoác lên mình hiển nhiên là danh hão, danh giả, tức là "Hữu danh vô thực", "danh bất xứng thực".
Điều dáng nói là những kẻ “hữu danh” kiểu ấy biết rất rõ họ không xứng với cái danh ấy nhưng vẫn đặt ra mục tiêu cần phải đạt được bằng mọi cách. Tục ngữ có câu: “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”. Trong một xã hội dù hướng thiện đến đâu cũng vẫn phải chung sống giữa chân và giả, xấu và tốt, thiện và ác, hư và thực... Xã hội càng phát triển, cuộc vật lộn để "hữu danh" sôi động, trắng trợn và đầy tính bi hài. Kẻ dốt nát kiên quyết chứng tỏ mình không dốt nát bằng đủ thứ bằng cấp, học hàm, học vị mà cả đời họ không thể có bất cứ cơ hội nào đem ra dùng. Tình trạng phó tiến sĩ, tiến sĩ, giáo sư... chưa có bằng phổ thông trung học, chưa có bằng đại học, một chữ nước ngoài không biết viết sai cả lỗi chính tả, văn hóa tối thiểu còn chưa đủ... như báo chí và dư luận nêu ra, là sản phẩm tất yếu của cơ chế dung túng thứ danh hão, danh suông. Hơn thế nữa, nó khuyến khích một lối học thực dụng, học hình thức, về thực chất còn hại gấp nhiều lần sự thất học. Nó đánh tráo những tiêu chí quan trọng thường là định hướng cho một đời người, một thế hệ. Có khá nhiều vấn đề nhức nhối mà xã hội đang xoay trần ra tháo gỡ, có nguyên nhân cắm rễ từ việc trọng dụng những người không có thực tài.
Danh và thực vẫn là câu chuyện của mọi thời. Ý thức được về bản chất của cái thực, cái danh trong cuộc sống là một điều cần thiết đối với những người trẻ tuổi.
Là những người đang cần phải cố gắng để hoàn thiện bản thân, phát triển nhân cách để khẳng định mình trong cuộc sống, hơn bao giờ hết mỗi chúng ta cần cố gắng vươn lên với thực lực của bản thân, không ỷ lại, dựa dẫm vào người khác.
Cũng không nên sớm theo đuổi thứ danh hão không thuộc về mình. Luôn cố gắng để có thể làm được tốt nhất những gì mình có thề trước khi nghĩ đến việc mình phải nhận được gì và sẽ nhận được gì. Rồi với sự nỗ lực của bản thân, chúng ta sẽ được đền bù xứng đáng.