Nếu tâm hồn một dân tộc thường gửi trọn vào thi ca của dân tộc mình, thì lục bát là thể thơ mà phần hồn của dân Việt đã nương náu ở đó nhiều nhất, sâu nhất. Có thể nói, người Việt sống trong bầu thi quyển lục bát. Dân ta nói vần nói vè chủ yếu bằng lục bát. Dân ta đối đáp giao duyên, than thân trách phận, tranh đấu tuyên truyền chủ yếu bằng lục bát. Và dân ta hát ru các thế hệ, truyền nguồn sữa tinh thần của giống nòi cho lớp lớp cháu con cũng chủ yếu bằng lục bát... Lục bát là phương tiện phổ dụng để người Việt giải tỏa tâm sự, kí thác tâm trạng, thăng hoa tâm hồn. Gắn với tiếng Việt, gắn với hồn Việt, thơ lục bát đã thuộc về bản sắc dân tộc này.
Lục bát có tự bao giờ? Người ta đã cố gắng tìm câu trả lời. Nhưng mọi trả lời đến nay vẫn chỉ là giá thuyết. Bởi cách sinh tồn của lục bát xa xưa là sống trong trí nhớ, sống qua đường truyền miệng của bao thế hệ người Việt, ít khi nằm im lìm trên trang giấy, nên tìm kiếm văn bản lục bát đầu tiên, kể cả dạng manh nha, dạng tiền thân của thể loại, để xác định niên đại của nó là việc thiên nan vạn nan. Tuy nhiên, cội nguồn bao giờ cũng là mối băn khoăn khôn cầm của nhân gian. Cội nguồn của lục bát cùng thế. Nó vẫn luôn là một bí mật đầy hấp dẫn, luôn mời gọi những cuộc khám phá đầy phiêu lưu của các nhà thi học, đặc biệt là “lục bát học”. Chắc chắn sẽ còn nhiều cuộc lội ngược về ngọn nguồn của tiếng Việt, lội ngược về cái vùng được xem là tiền sử của văn học và thơ ca Việt để mà khảo sát, tìm kiếm, lục lọi, để truy tìm bằng được khởi thủy của thể loại này. Mà cuộc tìm kiếm như thế, lắm khi, cùng oái ăm như cái điều mà một câu lục bát đã nói đến: Đem vàng đi đổ sông Ngô / Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Tương. Khởi thủy sớm hay muộn còn chưa có gì thật chắc, nhưng một điều có thể đoán chắc: lục bát là đứa con cưng của tiếng Việt, tiếng Việt đã nuôi lớn lục bát, đồng thời, chính lục bát cũng góp mình làm cho tiếng Việt hay hơn, đẹp hơn.
Chỉ có hai câu, 14 tiếng, mà một cặp lục bát tiềm tàng những khả năng biểu hiện vô tận. Nó luôn dư sức trần thuật:
Đêm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
(Ca dao),
Này chồng này mẹ này cha
Này là em ruột này là em dâu
(Nguyễn Du)
Đang trưa ăn mày vào chùa
Sư ra cho một lá bùa rồi đi
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày
(Đồng Đức Bốn)...
Nó vô cùng dồi dào năng lực trữ tình:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
(Ca dao)
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi
(Huy Cận)
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy vào đau lòng này
(Trần Huyền Trân)
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
(Nguyễn Bính)
Mái gianh ơi hỡi mái gianh
Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương
(Trần Đăng Khoa) ...
Nó đôi dả năng lực triết luận:
Trong năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
(Nguyễn Du)
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Hỏi tên rằng biển xanh đâu
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa
(Bùi Giáng )
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn,
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru,
Có gì lạ quá đi thôi
Khi gần thì mất xa xôi lại còn
(Nguyễn Duy)...
Nó đáp ứng mọi yêu cầu trào tiếu:
Một rằng thương hai rằng thương
Có bốn chân giường gãy một còn ba
(Ca dao)...
Chỉ có hai câu, 14 tiếng, với áp lực lớn về tính chẵn của tiết tấu, mà nhịp lục bát vẫn biến hóa vô chừng. Nó có thể dàn đều nhịp:
Năm năm tháng tháng ngày ngày
Lần lần lữa lữa rày rày mai mai
(Ca dao)
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đèm nện cối đều đều suối xa
(Tố Hữu )...
Nó có thể co kéo những trùng điệp, tạo nên nhịp dích dắc:
Còn tình yêu của đôi ta
Đến đây là đến đây là là thôi
(Nguyễn Bính )...
Nó có thể đăng đối nhịp:
Người lên ngựa kẻ chia bào,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
(Nguyễn Du),
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
(Á Nam Trần Tuấn Khải)...
Nó có thể đảo nhịp:
Cái gì như thể nhớ mong
Nhớ nàng, không, quyết là không nhớ nàng
(Nguyễn Bính ),
Thác, bao nhiêu thác cũng qua
Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời
(Tố Hữu)
Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ... một khoảng trời pha lê
(Phạm Công Trứ)
Được lúa, lúa đã gặt bông
Được cải, cải đã chặt ngồng muối dưa
(Đoàn Thị Lam Luyến)...
Nó có thể tràn vần nhịp:
Làng ta lại lóp ngóp làng
Lòng ta lại ếch nhái hoang cả lòng
(Nguyễn Duy)
Con xin ngắn lại đường gần
Một lần rồi mẹ hãy dần dần đi
(Trúc Thông)...
Nó có thể vắt hàng:
Trời cao xanh ngắt. Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
(Thế Lữ)...
Chỉ có 14 tiếng, với hai câu chật chội, mà lục bát vẫn có cách dùng chữ với những chùm đôi, chùm ba, thậm chí, vẫn gói ghém được cả những chùm bốn cồng kềnh, khiến lời thơ uyển chuyển co giãn phóng túng đến lạ lùng:
Nắng thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều
(Nguyễn Bính),
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham
(Nguyễn Du).
Ở đây có những người con
Mang theo cái nõn nòn non lên ngàn,
Ngấp nga ngấp ngoáng kêu ma
Hóa ra ta gặp bóng ta trên tường
(Nguyễn Duy)...
Chỉ có 14 tiếng, với đắp đổi bằng trắc khắt khe, dễ sa vào đơn điệu, thế mà trên thực tế, lục bát vẫn có những cách dàn xếp bằng trắc vần vèo thú vị và hấp dẫn:
Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh
(Nguyễn Du),
Ngã ba ngã bảy về đâu
Cái ngáng làm cớ cho nhau chuyện trò
(Hữu Thỉnh),
Đến đây gió cũng đi vòng
Ngoằn theo khoeo núi ngoếu trong khuỷu rừng
(Nguyễn Duy )...
Thường, mỗi cặp lục bát là một khúc thức chỉ tải vừa một giọng, ví như giọng ngợi ca:
Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường
(Tố Hữu) ...
Và, khi cần thiết, lục bát vẫn có thể xé cả mình ra, đảo vần, ngắt hàng, biến thể, phá thể, thậm chí, tăng vọt số chữ, thế mà vẫn... cứ là lục bát:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Thất bát sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua
(Ca dao)...
Theo luật mà lách luật, nghệ thuật là thế, lục bát càng thế. Tiềm năng hình thức của lục bát là vô cùng. Làm sao có thể khai thác hết!
Từ xưa đến nay, lục bát vẫn sóng bước hai phong cách: dân gian và cổ điển. Không thể nói đằng nào hơn đằng nào kém. Đó là hai vẻ đẹp lục bát. Cả hai song hành, chuyển hỏa và bổ sung cho nhau, về tổ chức lời thơ, lục bát cổ điển theo điệu ngâm (coi trọng tính uyên súc của ý, cú pháp của văn viết, chất liệu ngôn từ nghiêng hẳn về thực từ), còn lục bát dân gian theo điệu nói (coi trọng việc biểu hiện xúc cảm trực tiếp, cú pháp của văn nói, ngôn từ với phổ rộng gồm thực từ và thoải mái hư từ, thậm chí, hết sức ưa dùng khẩu ngữ). Cùng viết về một cảnh tương tự nhau, cùng bộc lộ những cung bậc cảm xúc gần gũi nhau, nhưng cặp lục bát này:
Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa là diệu ngâm - thật uyên súc bởi được nén chặt toàn những thực từ, còn cặp này: Anh đi đó, anh về đâu? / Cánh buồm nâu, cảnh buồm nâu, cánh buồm rõ ràng là điệu nói - cứ như buột miệng nói chơi chơi, lỏng là lỏng lẻo, thế mà đâu có chịu nhường phần súc tích cho ai! Mỗi cặp là một vẻ đẹp riêng, không thể nào đánh đổi, mỗi cặp là con đẻ của một phong cách lục bát đó. Nếu thành tựu nổi bật nhất của lục bát dân gian là ca dao, thì lục bát cổ điển được viết bởi những cây bút bác học và kết tinh chói ngời là Truyện Kiều của Nguyễn Da.
Chừng nào tre còn xanh, sen còn ngát, chừng nào tà áo dài còn tha thướt, tiếng đàn bầu còn ngân nga, chừng ấy những điệu lực bát vẫn tiếp tục sinh sôi trên xứ sở này. Lục bát mãi mãi là một tài sản thiêng liêng của nền văn hóa Việt. Chừng nào thế giới còn chưa thấu tỏ vẻ đẹp của lục bát, chừng ấy họ chưa thực sự hiểu vẻ đẹp của thơ Việt. Và, chừng nào ta còn chưa làm cho thế giới tiếp nhận được vẻ đẹp của lục bát, chừng ấy nền thơ Việt vẫn còn chưa thực sự làm tròn sứ mạng của mình.