Phượng vĩ có thật nhiều tên, từ tên khoa học Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceaẹ Họ poincianas có cùng một họ với đậu Leguminosae, giống Delonix. Nguyên giống phát xuất từ Madagascar, phượng vĩ đã được đi du lịch đến khắp mọi miền nhiệt đới trên thế giới, nhất là đông nam Á và châu mỹ Latin. Cũng vì vậy, phượng vĩ đã có thật nhiều tên gọi thông thường theo từng ngôn ngữ. Có lẽ vì màu sắc rực rỡ đỏ rực nổi bật trên nền trời, nên phượng vĩ được so sánh như những ngọn lửa giữa rừng, nó được thổ dân vùng Madagascar cho vào hạng hoàng tộc của thảo mộc. Nó còn là loài cây biểu tượng của quần đảo Bắc Mariana.
Cây phượng thuộc vào loại thân mộc, cao khoảng 6 - 12 mét, cành dài khoảng 20 - 40cm, dày đặc những lá kép nhỏ li ti. Phượng vĩ nở rất lâu, kéo dài từ tháng năm, tháng sáu cho đến tháng chín. hoa phượng đỏ thẫm, đường kính khoảng 6 - 10cm mỗi hoa, 5 cánh hoa xoè rộng với những đốm đậm li ti trên cánh, và một trong năm cánh hoa màu vàng cam, hơi quăn góc, và thô hơn những cánh còn lại. Bên trong nhụy hoa là tập hợp của mười nhánh, dài khoảng 10cm, với phấn hoa thu hút ong bướm. Sau khi hoa tàn, từ đài hoa mọc ra trái phượng, dẹp và dài khoảng 60cm, khi chín đen thẫm và vỏ cứng, có hạt màu nâu thẫm bên trong.
Cây phượng phát triển tốt trên mọi loại địa hình: ven biển, đồi núi, trung du. Cây thuộc loại ưa sáng, mọc khoẻ, phát triển nhanh, không kén đất, rất dễ gây trồng. Tuy nhiên, nhược điểm lớn là tuổi thọ không cao: cây trồng trên đường phố chỉ 30 tuổi là đã già cỗi, thân có dấu hiệu mục rỗng. Sâu bệnh, nấm bắt đầu tấn công, cây trồng trong công viên, trường học có thể có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ đạt 40 - 50 năm tuổi.
Gỗ phượng thuộc loại trung bình, dùng trong xây dựng, đồ gỗ dân dụng, đóng hòm, xẻ ván. Cây cho vỏ và rễ làm thuốc hạ nhiệt, chống sốt. Vỏ cây có thể sắc nước uống trị sốt rét, đầy bụng, tê thấp, giảm huyết áp. Lá trị tê thấp và đầy hơi. Trái phượng vĩ được sử dụng tại khu vực Caribe trong vai trò của bộ gõ âm nhạc với tên gọi: shak-shak hay maraca. Ngoài ra có thể được dùng làm củi đốt. Ở những miền quê Việt nam, đôi lúc hạt phượng được đem rang trong cát để ăn vì có nhiều dầu, vị bùi bùi thơm thơm.
Trong ngành tinh chế hóa chất, hương và dầu thơm, hoa của phượng vĩ được dùng trong việc xoa bóp làm giảm căng thẳng cơ bắp. Hương phượng vĩ giúp chúng ta có thể tách rời khỏi những phiền toái, và những cuộc tranh cãi không cần thiết. Biết sử dụng hương hoa phượng, người ta có thể thoải mái hơn, cũng như cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Bởi mùi hương hơi nồng, nhưng lại rất dễ dàng ăn sâu vào lòng người, cũng như sự chuyển vận và dễ dàng hoà nhập vào môi sinh, phượng vĩ được người ta tin tưởng có tác dụng làm cho con người bớt căng thẳng, dễ dàng kết bạn, dễ đi sâu vào lòng người... Nó giúp người ta giao thiệp dễ dàng và lịch sự, cũng như vượt qua được những bực bội, giận dữ, để tâm hồn thoải mái hơn.
Tại Việt Nam, phượng vĩ được người Pháp du nhập vào trồng khoảng những năm cuối thế kỷ 19 tại các thành phố lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn. Hiện nay phượng vĩ là loài cây được trồng rộng rãi từ Bắc vào Nam trên vỉa hè, công viên, trường học. Vì cây có đặc điểm rụng lá vào mùa đông, xanh tươi vào mùa xuân, hè, thu, có tán lá sum sê, mở rộng tạo bóng mát và làm đẹp cảnh quang khi nở hoa. Thành phố Hải Phòng còn được gọi là thành phố Hoa phượng đỏ; nơi đây hoa phượng được trồng khắp nơi, có cả một công viên hoa phượng ngay trung tâm thành phố, có lễ hội hoa phượng diễn ra vào tháng 5 rất độc đáo.
Do mùa nở hoa của phượng trùng với thời điểm kết thúc năm học, mùa chia tay của học sinh nghỉ hè. Do đó, nó gắn liền với nhiều kỉ niệm buồn vui của tuổi học trò, và vì thế người ta gắn cho nó tên gọi "hoa học trò". Vẻ đẹp rực rỡ, chói ngời của phượng vĩ đã làm say đắm biết bao nhiêu người, biết bao nhiêu câu chuyện, thơ văn, nhạc hoạ, ... có hình bóng phượng vĩ đã ra đời, làm xao xuyến tâm hồn nhiều thế hệ. Trong mỗi chúng ta, nếu đã trải qua thời áo trắng đến trường, ắt hẳn mỗi người đều mang trong mình một kỉ niệm đặc biệt, gắn liền với cây phượng thân yêu.
Bộ (ordo) Fabales
Họ (familia) Fabaceae
Phân họ (subfamilia) Caesalpinioideae
theo Wiki