Ông Tám là “một cuốn trong bộ sử biên niên của xứ u Minh Hạ”. Ông đã ngót bảy mươi, thân hình “gân guốc”, là người duy nhất ở xẻo Đước “còn để đầu tóc”. Nghĩa là ông Tám vẫn còn giữ nếp sông dân dã cổ xưa. Ông là một hong những người đầu tiên đến xẻo Đước khai hoang lập ấp, khi “Heo rừng còn vô ỉa trong chòi, lúc cọp còn rình rập những người tới khẩn đất và con chim đi theo cọp đêm đêm, cứ kêu nghe boong boong… krỏi… krỏi”. Ông Tám là một lão nông cần cù, làm ăn giỏi. Cái mũi ông rất “tinh nhạy”, đúng là “Trời ban cho”, nên “chỉ cần ngửi nước rạch buổi sáng ông cũng biết ngay là có heo rừng hoặc chồn đến đây uống nước hồi đêm”. Ông là một tay bẫy heo rừng và chồn cáo “thật kì tài”. Con người ông là biểu tượng của sức sống và bao phẩm chất tốt đẹp của người nông dân miệt vườn như dũng cảm, mạnh mẽ, dẽo dai, bộc trực, chất phác, và tình nghĩa thủy chung. Lúc nào ở con người ông cũng toát ra “mùi vị của rừng nê địa, của cây đước, dòng kinh biển, ngọn lửa không bao giờ tắt dưới đất xốp mỡ màu”.
Giữa thời kì đen tối, dưới ách kìm kẹp của giặc, ông Tám và gia đình cũng như hàng triệu dân ấp dân lân vùng đồng bằng sông Cửu Long “quyết không rời bỏ Đảng và cách mạng”.
Bức chân dung ông Tám được Anh Đức khắc họa bằng một số nét cổ kính, gân guốc đậm chất thơ và chất tạo hình, tiêu biểu cho bao phẩm chất cao quý của người nông dân Nam Bộ xưa và nay.
Lúc nào, ông Tám và gia đình cũng gắn bó mật thiết với cách mạng, cũng dành cho cán bộ bao tình cảm quý mến đặc biệt. Trong hoàn cảnh xẻo Đước bị Mĩ – nguy “đóng thêm bốt, đồng bào bị giặt vây ép gắt gao hơn”, nhưng khi gặp chú Bảy cán bộ, ông Tám đã “ôm chầm lấy”. Và trong bóng tối khi nghe nói đến chuyện mượn xuồng, ông đã sốt sắng bảo: “Được, được cứ việc lấy đi!”. Giữa đêm trừ tịch đó, ông Tám đã không quên bỏ vào dưới sạp phía sau lái xuồng bôn đòn bánh tét lớn và hai gói trà “Thiết La Hán” – món quà Tết đầy tình nghĩa của gia đình ông gửi tặng anh em đang hoạt động bí mật trong cứ.
Tình quân dân, tình cảm cách mạng lúc nào cũng nồng cháy trong tâm hồn ông Tám, trong lòng bà con cô bác xẻo Đước; ngọn lửa ấy đã toả sáng và bùng lên khắp các xóm làng, dòng kênh thời đồng khởi.
Đọc truyện “Đất” của Anh Đức, chúng ta vô cùng ngưỡng mộ và kính phục khí phách hiên ngang lẫm liệt của ông Tám. Giặc dồn dân lập ấp chiến lược, âm mưu “Tát cạn nước bắt cá” vô cùng thâm độc. Trước hành động điên cuồng của lũ giặc, ông Tám dặn vợ con: “Nhà mình ở đầu xóm mà núng thế thì không làm gương được cho lối xóm”. Năm lần bảy lượt bị giặc o ép, ông Tám đều mưu trí, dũng cảm “kiếm cách lướt qua hết”. Khi bọn lính tráng kéo tới “hùng hổ dỡ nhà”, ông Tám nói cho chúng biết “Tôi không đi đâu” rồi ông đem cây mác dài bén ngót ra “phóng cắm giữa nhà”, nói một cách tỉnh khô: “Tôi nói thiệt chứ không phải giỡn đâu. Chú nào leo lên rút một cọng lá tôi chém cho coi”. Hành động kiên quyết ấy đã làm cho bọn giặc tuy súng đạn lăm lăm trong tay mà “không thằng nào dám leo lên dỡ nhà”. Hành động kiên quyết ấy của ông Tám đã làm gương cho mẹ con thím Sáu Ơn chống lại quyết liệt bọn lính, buộc chúng “buông mồi lửa, ngẩn ngơ” bó tay kéo về đồn.
Để giữ đất, bà con xẻo Đước cũng như hàng triệu người nông dân Nam Bộ đã dũng cảm, kiên cường chống lại súng đạn bọn cướp nước và bè lũ tay sai bán nước. Để giữ đất, ông Tám đã đem máu xương và tính mạng của mình để chống lại thằng quận trường Sông Đốc, thằng Đởm “chánh cống ác ôn”.
Cuộc đối đầu giữa thằng Đốm – thằng gian ác có tiếng với cha con ông Tám, với bà con cô bác xẻo Đước là vô cùng khốc liệt, dữ đội. Mới bước vào sân nhà ông Tám, thằng Đởm nổ súng, “nó kề miệng thổi phù phù vô cây nòng côn 12”, rồi thét “Ai là chủ nhà đây?”. Hắn xộc vô, ngó quanh quất, ngó ông Tám, đoạn vẫy súng. Hắn hách dịch hỏi ông Tám về lí do hắn tới nhà ông. Hắn hung hăng tự đắc, “ngó mấy tên lính, nháy mắt”. Hắn ngồi lên ván, “tréo ngoảy chân, đốt thuốc thơm hút”. Hắn giục ông Tám “lo chuẩn bị đồ đạc đi”. Hắn quyết dùng súng đạn uy hiếp ông Tám và người dân xẻo Đước để lập ấp chiến lược.
Trái lại, ông Tám rất bình tĩnh, đĩnh đạc, ung dung. Ông mở tủ thờ lấy cái áo dài bằng xuyến đen ra mặc, vừa bận áo vừa vuốt từng nếp nhăn. Chiếc áo dài ấy, ông Tám chỉ mặc khi có giỗ kị. Ông “xổ đầu tóc, xòa ra”. Ông không thèm ngó ngàng đến thằng ác ôn. Ông trang trọng rút mấy nén nhang, sai con trai đốt đèn lên. Ông Tám thắp nhang, quỳ xuống trước bàn thờ, lầm rầm khấn. Tiếng khấn của ông Tám là lời nguyền thiêng liêng quyết nối chí tổ tiên ông cha, quyết “xin chết” để giữ đất, để “cha mẹ và cúc vị liệt sĩ ngó thấy”. Đọc truyện “Đất” ta vô cùng xúc động khi nghe ông Tám khấn nguyền. Ta tưởng như đó là tiếng của các nghĩa sĩ cần Giuộc, của Trương Công Định… một trăm năm về trước vọng về: “Thưa ông bà, cha mẹ, thưa các hương hồn liệt sĩ, nhà cửa đất đai đây là của ông bà, cha mẹ và cách mạng đã tạo lập cho con. Bữa nay người ta tới ép buộc con phải bỏ đi. Con không thể phụ bạc công ơn cha mẹ, công ơn cách mạng. Vậy con xin chết cho cha mẹ và các vị liệt sĩ ngó thấy. Khấu đầu xin cha mẹ và các vị chứng kiến cho…”.
Sau đó là những giây phút rùng rợn. Thằng Đởm ác ôn kêu lên: “ông già câm miệng”. Ông Tám khấn vái xong, bước tới góc nhà “Chụp cây mác”, bước tới trước mặt thằng giặc khát máu hỏi hắn “muốn gì”. Súng thằng Đởm chĩa vô ngực ông Tám. Ông Tám chĩa mũi mác nhọn hoắt về phía tên ác ôn. Anh Hai Cần “vớ ngay cây búa bửa củi giấu sau cánh cửa”. Bọn lính “lên đạn rốp rốp”. Ông Tám “nhích mũi mác tới”. Thằng đồn trưởng “lùi lại”, tay súng nó “run lẩy bẩy”. Phút giây quyết liệt, dữ dội. Cái gì sẽ xảy ra? Thẳng Đởm nổ súng “đùng”. Ông Tám vẫn đi tới khi máu chảy xuống mặt ông vẫn đi tới, mũi mác chĩa lên, thằng đồn trưởng cứ lùi, buông rơi khẩu súng, rú lên bỏ chạy. Và cây búa trong tay anh Hai cần – người con trai ông Tám đã “bay theo”. Đây là cái chết thằng ác ôn, tên giặc đi cướp đất: “Lười búa cắm ngập vô gáy thằng đồn trưởng”, “Nó kêu trời ơi, rồi té sấy hai tay vã xuống nền nhà”. Kẻ đã bán linh hồn cho quỷ dữ phải đền tội, đúng như hắn đã thề độc khi bước chân tới xẻo Đước “Tôi không lùa được dân xẻo Đước thì tôi chết sao?”.
Anh Đức đã tái hiện cuộc chiến đấu giữ đất vô cùng tráng liệt. Lời thề thiêng liêng và tư thế hiên ngang, lẫm liệt của ông Tám, mũi mác nhọn hoắt – và lưỡi búa của hai cha con ông Tám đã chĩa thẳng vào mặt, đã bay theo và cắm phập vào gáy tên ác ôn. Máu ông Tám đã đổ xuống, để giữ đất, để nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất của người nông dân Nam Bộ. Khuynh hướng sử thi, âm điệu anh hùng ca và cảm hứng lãng mạn dào dạt trên trang văn của Anh Đức.
“Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu”, “Lớp cha trước, lớp con sau. Đã thành đồng chí chung câu quân hành”, đó là những vần thơ của Tố Hữu mà nhiều người trong chúng ta có chợt nhớ khi đọc truyện “Đất” của Anh Đức, khi nghĩ về tư thế chiến đấu hiên ngang, lẫm liệt anh hùng của ông Tám, của anh Hai cần.
Ông Tám là một nhân vật tuyệt đẹp mang tính chất điển hình cho những phẩm chất cao quý của người nông dân Nam Bộ: lao động cần cù giỏi giang, tình nghĩa thủy chung, dũng cảm hi sinh chiến đấu, để giữ làng giữ đất. Lòng yêu nước, yêu Đảng, yêu cách mạng của ông Tám son sắt và chói lọi.
Anh Đức đã sáng tạo nên một tác phẩm đặc sắc: có sức khái quát cao chủ đề sâu sắc, cốt truyện hấp dẫn, giọng kể đậm đà, xúc động, ngôn ngữ và nhân vật đậm chất Nam Bộ, đầy ấn tượng. Tình huống của truyện rất hấp dẫn, nhất là trong cảnh ông Tám đối mặt với tên ác ôn, khi lưỡi búa trong tay anh Hai Cân bay cắm phập vào gáy tên giặc khát máu.
Máu ông Tám đã đổ xuống, máu của hàng ngàn, hàng vạn người nông dân Nam Bộ đã đổ xuống, để đất nở hoa, xanh tươi cây trái bốn mùa. Chỉ có máu và mồ hôi mới làm cho đất màu mỡ, làm cho giang sơn gấm vóc tươi đẹp và bền vững đời đời.
Truyện Đất của Anh Đức còn mang ý nghĩa là khúc tráng ca Tự do như anh Bảy, một cán bộ kháng chiến nằm vùng khi trở lại Xẻo Đước đã nói: “Tự do như có thể sờ nắm được… Tự do ở bước chân tôi đặt lên con đường đất. Và tự do được đánh dấu chỗ cổng nhà mà ngày trước bọn giặc vẫn thường rậm rịch kéo qua”…