“Thăng Long thành hoài cổ” là một trung những tác phẩm tiêu biểu cho triết lí nhân sinh sâu sắc và nghệ thuật trác tuyệt của thơ Bà Huyện Thanh Quan:
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá cũng trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương,
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.”
Với học vấn uyên bác, tác giả mở đầu bài thơ bằng triết lí có giá trị khái quát rộng lớn:
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương”
Thơ Bà Huyện Thanh Quan xúc cảm được nén lại mà lí trí nổi bật lên, điều đó hiếm thấy ở thơ của phụ nữ. Câu hỏi “tạo hóa gây chi cuộc hí trường” thật bất ngờ, với câu hỏi sâu sắc đó, bà vừa là người trong cuộc (sống) vừa là người ngoài cuộc. Bà làm sao tránh khỏi là “diễn viên” của cái “hí trường” (sân khấu hài) đó? Mặt khác bà dù bản lĩnh để thoát ra ngoài hí trường để quan sát, để xúc cảm, đế suy ngẫm. Cùng thời với bà, bên trời Tây có Ônôrê Đờ Bandắc (Pháp) viết 94 cuốn tiểu thuyết (có tên chung là “Tấn trò đời”) để mô tả cái “hí trường” của nhân loại. Câu hỏi của Bà Huyện Thanh Quan đặt ra sẽ còn miên viễn vì “hí trường” của con người ngày càng sôi động hơn. Tạo hóa dường như ngày càng “thích đùa” hơn. Cảm nhận về thời gian của nữ sĩ cũng lạ. Cái “hí trường” của tạo hóa vận động không ngừng, “thấm thoắt” trong từng hình ảnh mọc, lặn của các vì tinh tú, “thấm thoắt” trong từng giọt sương đêm trên đầu ngọn cỏ và tan biến dưới ánh ngày. “Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương”, hình tượng hóa về sự vận dộng của thời gian như thế thật là sinh động.
Trong sự vận động “thấm thoắt” của thời gian, mảnh đất ngàn năm văn vật của một thời vàng son chỉ còn lại những dấu tích của tháng ngày:
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”
Hai câu thực giữ nguyên âm điệu cổ điển của câu thơ Đường luật, nhịp 4/3 quen thuộc như “lối xưa”, như “nền cũ”, thích hợp với điệu hoài cảm của bà. Tình cảm của nữ sĩ với Thăng Long là một dòng chảy ngược. Không có một hình bóng, một sắc màu, một âm thanh nào là của hiện tại. Bà nuôi dưỡng, e ấp hình bóng của quá khứ. Một lối đi nhỏ nhoi cũng hằn trong tâm trí bà vì đó là “lối xưa”, với âm thanh vang động của “xe ngựa” thời vàng son. Và ghê gớm hơn, sợi cỏ cũng sống mãi trong hồn bà, gợi lại cả hương thời gian, “hồn thu” xưa. Người đàn bà này kì dị thật, chỉ xúc động với những gì tàn phai. Ánh chiều tà chiếu trên “nền cũ lâu đài” cũng gợi cho bà cả một thuở huy hoàng. Ánh sáng của “bóng tịch dương” hay là ánh sáng tích góp trong lòng bà để làm sáng lên hình bóng của quá khứ mà theo bà là lí tưởng?
Hai câu thực thấm đẫm tinh thần hoài cổ, mà nào bà có giấu giếm, bà đã diễn tả nỗi luyến tiếc quá khứ bằng một thứ nhạc điệu êm đềm, bằng hình thức ngôn ngữ đài các, sang trọng.
Chuyển sang hai câu luận, bút pháp đối. Hình thức tu từ nhân hóa biểu hiện tình cảm mãnh liệt cúa nhà thơ với Thăng Long xưa:
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương”
Nữ sĩ đã chọn một hình ánh tĩnh (đá) và một hình ánh động (nước) tiêu biểu cho sự trường tồn trong không gian, thời gian. Dưới nhãn quan của bà, “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Hình ảnh nhân hóa “đá vẫn trơ gan” biểu hiện cự tuyệt sự đổi thay của năm tháng, của thời gian. Câu thơ đầy nội lực của một tình yêu son sắt với quá khứ huy hoàng. Hình ảnh nhân hóa “nước còn cau mặt” cũng là một hình ảnh bên trong, của tâm trạng. Nhận ra bộ mặt đau khổ của nước trước sự biến đổi, “Nước còn cau mặt với tang thương” phải nói là Bà Huyện Thanh Quan là con người yêu quá khứ đến đớn đau. Bà là một thi sĩ hoài cổ kì la. Nhìn vào đá, bà thấy tấm lòng của mình, nhìn vào nước, bà thấy chính khuôn mặt của mình, bà yêu thành Thăng Long xưa biết nhường nào. Và bà đã phổ tình yêu non nước sâu thẳm của bà bằng một giai điệu buồn. Tất nhiên nỗi buồn của bà không ủy mị vì bà hiểu được lẽ lớn của tạo hóa. Cái tịch mịch trong thơ bà vẫn có ánh sáng trác tuyệt của trí tuệ.
Kết thúc bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ”, Bà Huyện Thanh Quan lí tưởng hóa quá khứ và bộc lộ nỗi đau lòng trước sự đổi thay:
“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”.
Bằng hình ảnh ẩn dụ “ngàn năm gương cũ soi kim cổ”; nhà thi sĩ đã tôn vinh quá khứ thành mẫu mực cho xưa nay, cho “ngàn năm”. Đấy là tình cảm của một thời đại bế tắc. Tiếc thay một trí tuệ trác tuyệt như Bà Huyện Thanh Quan mà chỉ để hoài cổ. Song người đời có thể thông cảm với nữ sĩ vì nữ sĩ sống trong một chế độ phong kiến đến giai đoạn suy vong, bế tắc. Bà không thể phá phách được như Hồ Xuân Hương mà đành lòng quay về tôn thờ, hoài niệm một quá khứ vàng son đã mất. Cho nên, trở lại Thăng Long, nhìn thấy cảnh đổi thay, nữ sĩ hết sức đau lòng “Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”. Khẳng định về một quá khứ hoàng kim, tác giả dùng động từ “soi” đầy tự hào, diễn tả nỗi đau đứt ruột của một tấm lòng hoài cổ, nỗi đau triền miên, đằng dăng, tác giả đã dùng từ “luống” (Luống đoạn trường) là những nốt chủ âm kết thúc khúc ca bi thương, và khúc ca thì kết thúc, nhưng hoài niệm về một quá khứ vàng son thì cứ xôn xao mãi trong lòng thi nhân.
“Thăng Long thành hoài cổ” là bài thơ hay của Bà Huyện Thanh Quan. Thể thơ Đường luật điêu luyện, niêm luật chặt chẽ, từ ngữ chọn lọc, thủ pháp biến hóa. Xúc cảm được nén lại. Trí tuệ bộc lộ trong hình thức ngôn từ tráng lệ. Tư tưởng hoài cổ của nữ sĩ biểu hiện sâu sắc, mãnh liệt. Hoài niệm về những tàn dư của Thăng Long là một cách nhà thơ lí tưởng hóa quá khứ. Hoài cổ vốn dĩ là dòng tư tưởng phản lịch sử, ảo tưởng trí thức của một thời. Nhưng xét hoàn cảnh cụ thể lịch sử thì thái độ bất bình của bà đối với thực tại suy vong tàn tạ của triều Nguyễn là một thái độ sáng suốt, tuy nhiên trí tuệ sáng suốt của bà chưa đủ sức mạnh để bà vượt qua bế tắc của thời đại và trở thành nhà tiên phong về tư tưởng, bà chỉ đủ quay về tôn vinh cái quá khứ mà bà cho là thời đại hoàng kim. Chúng ta yêu thích nghệ thuật trác tuyệt của bà và chia sẻ những hoài niệm của bà.