Giăng Giắc Ru-xô (Jean-Jacques Rousseau, 1712 1 1778) là nhà văn Pháp nổi tiếng thế kỉ XVIII. Ông sinh ra trong một gia đình,nghèo, cha làm thợ sửa đồng hồ. Mồ côi mẹ sớm nên ông chỉ được đi học từ năm mười hai đến năm mười bốn tuổi, sau đó rời gia đình, lang thang nhiều nơi, trải qua nhiều nghề để kiếm sống. Nhờ thông minh, có năng khiếu bẩm sinh và chịu khó học hỏi, Ru-xô đã trở thành nhà triết học, nhà văn có tên tuổi. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như: Luận về khoa học và nghệ thuật (1750), Luận về sự bất bình đẳng (1755), tiểu thuyết Giuy-li hay nàng Hê-lôi-dơ mới (1761), tiểu thuyết Ê-min hay về giáo dục (1762), Những mơ mộng của một người dạo chơi cô độc (1777 1 1778)…
Luận điểm triết học mà Ru-xô hay bàn tới là sự đối lập giữa con người tự nhiên và con người xã hội. Theo ông, con người sinh ra vốn lương thiện, tự do và sung sướng, nhưng xã hội phong kiến đã biến con người thành độc ác, nô lệ và khổ cực. Triều đình phong kiến Pháp thế kỉ XVIII thẳng tay đàn áp những tư tưởng tiến bộ của Ru-xô, ông bị truy nã khắp nơi. Mười một năm sau khi ông qua đời, cách mạng tư sản 1789 đã đánh đổ chế độ phong kiến suy tàn tổn tại lâu đời. Tư tưởng dân chủ tiến bộ của Ru-xô được đánh giá rất cao. Tượng bán thân Ru-xô được chính phủ Cách mạng tư sản Pháp trân trọng đặt trong phòng họp của Quốc hội.
Ê-min hay về giáo dục là một thiên luận văn tiểu thuyết, nội dung đề cập đến phương pháp giáo dục một con người từ khi mới ra đời cho đến lúc trưởng thành. Nhà văn đặt tên cho nhân vật là Ê-min và thầy giáo đảm nhiệm công việc giáo dục chính là ông. Tác phẩm chia thành năm quyển, tương ứng với năm giai đoạn liên tiếp của quá trình giáo dục.
Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ khi Ê-min mới ra đời cho đến khoảng hai, ba tuổi. Nhiệm vụ của người giáo dục là làm sao cho cơ thể em bé được phát triển tự nhiên. Giai đoạn thứ hai từ khi Ê-min lên bốn, lên năm cho đến mười hai tuổi. Đây là giai đoạn giáo dục cho em một số nhận thức bước đầu bằng hình thức giáo dục nhẹ nhàng, không gò bó. Tiếp theo là giai đoạn thứ ba kéo dài khoảng ba năm, Ê-min sẽ được trang bị những kiến thức khoa học hữu ích, nhưng không phải là kiến thức trừu tượng trong sách vở mà là kiến thức cụ thể tiếp thu được từ thực tiễn sinh động của cuộc sống và thiên nhiên. Năm mười lăm tuổi, Ê-min học một nghề lao động chân tay và gia sư đã hướng dẫn em học nghề thợ mộc. Giai đoạn thứ tư từ năm mười sáu đến năm hai mươi tuổi, Ê-min được giáo dục về đạo đức và tôn giáo. Giai đoạn thứ năm, Ê-min đã trưởng thành. Anh gặp Xô-phi, một cô gái nết na được giáo dục từ bé theo những nguyên tắc tương tự. Hai người yêu nhau. Trước khi cưới, Ê-min đi du lịch hai năm để cho đạo đức và nghị lực được thử thách và cũng là dịp mở mang hiểu biết về xã hội rộng lớn xung quanh.
Bài Đi bộ ngao du trích trong quyển V – quyển cuối cùng của tác phẩm Ê-min hay Về giáo dục. Văn bản này do tác giả sách giáo khoa dịch và đặt nhan đề.
Để thuyết phục mọi người rằng nếu ngao du thì nên đi bộ, tác giả đã lập luận bằng ba đoạn văn, mỗi đoạn trình bày một luận điểm: Đi bộ ngao du được tự do thưởng ngoạn. Đi bộ ngao du là dịp để trau dồi, mở mang tri thức. Đi bộ ngao du làm cho tính tình trở nên vui vẻ.
Tác giả đã dùng lí lẽ và dẫn chứng để thuyết phục bạn đọc về lợi ích của việc đi bộ ngao du. Lập luận của bài văn hết sức chặt chẽ. Tác giả lấy thực tiễn sinh động để chứng minh rằng muốn ngao du cần phải đi bộ. Bài văn còn thể hiện rõ Ru-xô là một con người giản dị nhưng sâu sắc, quý trọng tự do và yêu mến thiên nhiên.
Ở đoạn thứ nhất, tác giả nhấn mạnh rằng đi bộ ngao du là cách mà con người được tự do đến mức tối đa. Từ một việc làm bình thường hằng ngày, tác giả đã nâng lên thành một mục đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng. Trong đoạn văn này, tác giả chủ yếu sử dụng câu trần thuật để kể lại những điều thú vị của người ngao du bằng cách đi bộ.
Tác giả kể chuyện bằng ngôi thứ nhất và lấy những kinh nghiệm của bản thân trong việc đi bộ ngao du để thuyết phục mọi người: Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tuỳ. Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay… một dòng sông…; một khu rừng rậm; một hang động…; một mỏ đá… các khoáng sản… Xem tất cả những gì con người có thể xem…; chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay gã phu trạm. Hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ… Ta làm chủ ý thích, làm chủ hành động, làm chủ bản thân, không phụ thuộc vào ai.
Khi quả quyết rằng: Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ, tác giả khẳng định mình là người ưa thích ngao du bằng đi bộ và muốn mọi người cũng nên thích đi bộ ngao du như mình. Các cụm từ ta ưa đi, ta thích dừng, ta muốn hoạt động, tôi hưởng thụ xuất hiện liên tục để nhấn mạnh cảm giác tự do cá nhân; từ đó tác giả muốn thuyết phục bạn đọc tin vào lợi ích to lớn của việc đi bộ ngao du. Đó là cách tốt nhất để con người hòa hợp với thiên nhiên tuyệt mĩ.
Căn cứ vào lời lẽ phân tích, giảng giải của vị gia sư cho cậu bé Ê-min thì đi bộ ngao du quả là thú vị nhất trần đời, vì nó đem lại cho con người cảm giác sảng khoái của tự do tuyệt đối. Mà trên đời, còn gì sung sướng hơn được tự do? Ta là chủ bản thân ta, không bị lệ thuộc hay chi phối bởi bất cứ ai, bất cứ điều gì. Nhờ vậy mà ta thỏa mãn được những nhu cầu đặt ra trước chuyến đi.