Trước hết, ta không quên rằng văn học lãng mạn Việt Nam đã nảy sinh và phát triển trong một hoàn cảnh nghiệt ngã: cả dân tộc đang nô lệ. Làm sao nhà văn có thể thoát khỏi cái vòng kiềm tỏa khủng khiếp ấy. Đó là cái khoảng thời gian mà mỗi người, khi bước vào đời, chỉ có quyền chọn một trong hai cách sống: hoặc cứu nước, sẵn sàng vào tù ra: sẳn sàng dấn thân vào cái chết, hoặc là cam chịu (một cách có ý thức hay không ý thức) cảnh cá chậu chim lồng để chỉ được vui gượng và nếu buồn cũng chỉ là buồn riêng. Văn học lãng mạn Việt Nam là tiếng nói, tiếng thở dài có thể cảm thông của một lớp người vui gượng buồn riêng đó. Cho nên, giữa nhiều mục đích của việc sáng tạo văn học, các nhà văn lãng mạn Việt Nam đã chọn cho mình một mục đích được họ coi là tối thượng: Phụng sự nghệ thuật. Với Thế Lữ, nhà thơ tiên phong của phong trào thơ mới, mục đích ấy là:
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể.
(Cây đàn muôn điệu)
Trong văn xuôi, với Khải Hưng và Nhất Linh, nghệ thuật chỉ là “đẹp” (tên một tiểu thuyết).
Thật ra, văn học lãng mạn 1930 - 1945 không phải là một dòng văn học thuần nhất. Nó tập hợp nhiều người và một số nhóm mà chủ trương, có tuyên bố hay không tuyên bố, đôi khi lại khác nhau. Nó bao gồm cả tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch. Tuy nhiên, nghĩ đến dòng văn học này, người đọc thường hay nghĩ tới những tiểu thuyết của nhóm “Tự lực văn đoàn” (Chủ yếu là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo) và phong trào thơ mới từ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư qua Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính đến Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Điều đó có cái lí của nó: đó là những tác phẩm, những tác giả thực sự có tác động đến người đọc và để lại dấu ấn sâu xa trong nền văn học nước nhà, đó là những tác phẩm, tác giả hình thành nên những đóng góp và hạn chế chủ yếu của nền văn học này đối với thời đại và văn học.
Văn học lãng mạn Việt Nam có những mặt yếu của nó. Nó đã không nói đến những vấn đề nóng bỏng trước mắt. Nó né tránh nỗi khổ nhục của dân tộc, những đau đớn của kẻ nghèo, những bất công giữa cảnh bần cùng với cảnh xa hoa. Nó quên đi và làm cho mọi người quên đi, dẫu là trong phút chốc, những đen tối nghiệt ngã của đời sống. Lật nhiều trang sách, đọc nhiều bài thơ lãng mạn, người ta thấy trong cuộc đời hình như không có nỗi lo nào ghê gớm ngoài nỗi lo không được yêu nhau, không có nỗi đau khổ nào đáng sợ bằng nỗi đau của tình yêu bị cấm ngăn hay bị phụ bạc. Từ trên rừng xuống dưới biển, văn học lãng mạn không cho người ta nhìn thấy những cảnh chen chúc vật lộn để kiếm sống, để sống của con người mà đâu đâu cũng chỉ có một sự hài hước đẹp đẽ của thiên nhiên từ cánh rừng già “Với giọng nguồn hét núi” đến cảnh trăng lên thơ mộng trên biển Đồ Sơn, những lũy tre xanh êm đềm rủ bóng những sườn đồi chênh vênh, những hang sâu động thẳm thường làm nền cho những cuộc tình éo le và cảm động. Cái chất thi vị hóa đời sống ấy phổ biến trong tác phẩm lãng mạn đến nỗi nhà văn hiện thực Nam Cao từng phải kêu lên: “Nghệ thuật không cần phải làm ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối...”
Muốn thoát li khỏi xã hội, văn học lãng mạn đưa người đọc vào cõi vũ trụ của cá nhân, mà mỗi trang sách, mỗi câu thơ là một sự khám phá vào cái vô tận vô cùng của nó. Cái tôi đam mê, cái tôi chán chường, cái tôi hào hứng, cái tôi phản kháng, cái tôi cam chịu, cái tôi thắm tươi, cái tôi tật bệnh... bao nhiêu là khía cạnh của cái tôi, đồng thời hay lần lượt hiện ra, lên tiếng đòi chỗ đứng của mình dưới mặt trời như một cái thật khẩn thiết. Chưa bao giờ trong văn chương Việt Nam, cá nhân con người được nói đến một cách tập trung và quyết liệt đến như thế. Hình như, không có gì chính đáng bằng, đáng quan tâm bằng số phận của cá nhân, hạnh phúc và đau khổ của cá nhân. Cá nhân là tất cả và tuyệt đối, hưởng thụ cá nhân là chính đáng và cần kíp. Xuân Diệu kêu gọi:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi.
(Giục giã)
Văn học lãng mạn tìm đến nhiều hướng thoát nhưng trước hết là đến với tình yêu. Tình yêu ấy hầu như trở thành một thứ tôn giáo. Ngọc, trong Hồn bướm mơ tiên của Khải Hưng, đưa tình yêu đến trước Phật đài để tôn thờ nói bất vọng bất diệt trong cõi vĩnh hằng. Một nhân vật trong truyện ngắn Trên sông Hương, cũng của Khải Hưng, thì nói: “Ngoài em ra, ngoài ái tình của đôi ta ra, anh không còn cần một thứ gì khác nữa”.
Nhưng trong cái xã hội ngày ấy, nhà văn lãng mạn đi đâu cho thoát khỏi bế tắc của đời sống? Chung quy lại vẫn là bóng tối, vẫn là cái tẻ nhạt và vô nghĩa của đời sống. Văn học lãng mạn đã nâng cái buồn lên thành một tiêu chuẩn của sự sống, sống là phải buồn và buồn cần phải chia sẻ. Từ cái buồn thoáng qua, vô cớ thời Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, cái buồn trở nên mênh mông, một nỗi “sầu vận cố” với Huy Cận, và càng trở nên bi thương, điên loạn với Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử... đọc thơ lãng mạn, người đọc chìm ngập trong nỗi buồn!
Nhưng tất cả chỉ có thế thôi, văn học lãng mạn đâu đáng được tồn tại suốt mười lăm năm như thế và lập được một lớp người đọc khá đông, không phải là những kẻ “mù lòa”, ưu ái và ủng hộ đến như thế.
Đầu tiên, thái độ thoát li xã hội, xét cho thấu đáo, có mặt tích cực của nó. Văn học lãng mạn đã không hòa giọng vào cái hợp xướng hoàn ca của những thứ cũng là gọi văn chương, ca ngợi một cách vô liêm sỉ nước “đại Pháp” và sự văn minh khai hóa của nó trên đất nước Việt Nam này. Nỗi buồn lâm li của văn học lãng mạn ít ra cũng giúp người ta biết buồn nếu chưa biết làm gì khác trong cuộc sống nô lệ ngày ấy. Cái tâm trạng phủ nhận hết thảy. “Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau” của Chế Lan Viên cũng đáng được thông cảm. Trong những hành động phiêu lưu đầy chất anh hùng cá nhân của một anh chàng Dũng trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn của Nhất Linh, người đọc có thể tìm thấy một thái độ không an phận, một tiếng vỗ cánh muốn bay lên của một con chim biết chán chường những thức ăn béo bổ trong cái lồng son dành cho mình. Một bài thơ thường được nhắc tới nhiều của thơ ca lãng mạn, bài Nhớ rừng của Thế Lữ, đã nói được những ít cái cay đắng của cuộc đời nô lệ và một khát vọng (dẫu là bất lực) về một cuộc đời tự do:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi.
... Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!
Trong không khí oi bức ngột ngạt của xã hội thực dân phong kiến ngày ấy, văn học lãng mạn đã cố gắng tìm được một lối thoát phù hợp với sức vóc của mình: chống lễ giáo phong kiến. Có thể nói: Nhờ nhiều tác phẩm của nhóm Tự lực văn đoàn, người đọc hiểu và cảm được tính chất phi lí tàn bạo, cái đần độn, man rợ của nhiều thứ lễ giáo cho đến lúc ấy vẫn còn được coi là bất khả xâm phạm.
Đó là thứ quan niệm hôn nhân “môn đăng hộ đối” không đếm xỉa gì đến quyền sống của con người, mù quáng đến phi lí, vô nhân đạo (như trong Nửa chừng xuân của Khải Hưng) là thứ chủ trương vừa tàn nhẫn vừa giả dối đến khôi hài: cấm người quả phụ tái giá (như trong Lạnh lùng của Nhất Linh), hoặc tục ép duyên dẫn đến hậu quả vô cùng tại hại (như trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh). Thái độ của các nhà văn lãng mạn đối với lễ giáo phong kiến là không hòa hoãn. Với họ, lễ giáo phong kiến đã hết thời rồi, và sự tồn tại của nó không chỉ là việc có hại mà còn hoàn toàn lố bịch.
Chống lại lễ giáo, văn học lãng mạn đã ca ngợi tình yêu. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, đặc biệt là trong thơ, tình yêu - một tình cảm đẹp của con người - lại được nói đến với đầy đủ cung bậc như thế.
Sự phong phú của chủ đề tình yêu trong văn học lãng mạn may ra chỉ có văn học dân gian (chủ yếu là ca dao) mới đuổi kịp. Trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh có thơ của 45 nhà thơ thì hầu như chỉ có một người không nói đến tình yêu! Cho đến ngày nay, những câu thơ, những bài thơ tình ngày ấy không phải không còn làm rung lên nơi người đọc những tình cảm đẹp và trong sáng, hoặc mộc mạc như:
Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Nguyễn Bính)
Hoặc say đắm mà hoài nghi như:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhẫn ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
(Hàn Mặc Tử)
Với văn học lãng mạn, thiên nhiên không chỉ là một phương tiện mà là một chủ thể, một nguồn cảm hứng lớn, một đối tượng miêu tả chủ yếu. Có thể nói, qua văn học lãng mạn, người đọc biết mở mắt ra để chiêm ngưỡng thiên nhiên. Người ta rung động vì vẻ đẹp một mái cong trước tam quan một ngôi chùa vùng Kinh Bắc, vẻ thước tha nơi rặng liễu ven hồ Tây một sớm vào thu, vẻ xanh tươi của một ngôi vườn xứ Huế, vẻ mộc mạc của một giậu mùng tơi, một thôn xóm đồng bằng, hay là một đồi chè thoai thoải ở vùng Trung Châu... Bao người, chỉ nhờ đọc văn học - lãng mạn mà biết được và yêu mến một bến đò Trung Hà, một ngôi chùa Long Giang, một con đê Yên Phụ, một làng xanh Vĩ Dạ, một con đường đi chùa Hương thơ mộng như đường đến cõi tiên... Ta cũng nên nhớ rằng, trong bối cảnh xã hội ngày ấy, tình yêu thiên nhiên, thiên nhiên Việt Nam, không phải không gắn liền ít nhiều với một niềm tự hào dân tộc chính đáng. Giữa lúc không ít kẻ hễ mở miệng là chỉ nói đến Tây, ca ngợi người Tây, ca ngợi cảnh Tây, thì tình yêu thiên nhiên, sự ca ngợi thiên nhiên và con người Việt Nam dẫu có lúc thi vị hay quá đáng đi nữa, cũng là một sự trở về cội nguồn.
Không phải không có lúc ta coi nhẹ những đóng góp về nội dung của văn học lãng mạn Việt Nam, thậm chí phủ nhận. Tuy nhiên về mặt hình thức, văn học lãng mạn có những đóng góp mà ai cũng phải công nhận. Những tác phẩm lãng mạn, đặc biệt là hai thể loại tiểu thuyết và thơ, đánh dấu sự cáo chung của văn học có để đưa văn học Việt Nam vào thời kì hiện đại. Với sự nhạy cảm trước cái cũ, cái gò bó khuôn sáo của hình thức cũ, văn học lãng mạng mạnh dạn tìm cái mới. Phong trào thơ mới từ 1932 để cởi trói cho thơ Việt Nam, tiếp nhận cái không khí mới trong thơ phương Tây nhưng lại tìm đến với những thể loại dân tộc như thể lục bát, thể ca trù và cả các thể Đường luật để đổi mới chúng, làm cho chúng có đủ sự uyển chuyển để diễn tả được vô vàn tâm trạng của con người hiện đại. Cho đến nay, thơ Việt Nam vẫn còn tiếp nhận và phát huy những thành quả của cuộc cách tân hình thức thơ ca ấy. Người đọc sẽ không quên những bài thơ tiên phong như Nhớ rừng đầy giọng phóng túng và hào hùng của Thế Lữ, tiếng thu tự do và đầy nhạt tính của Lưu Trọng Lư...
Tiểu thuyết Việt Nam với những tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, đã đoạn tuyệt với kĩ thuật tiểu thuyết chương hồi vốn được coi là mẫu mực của tiểu thuyết, cũng đã từ bỏ kiểu cú pháp biền ngẫu rườm rà, những đối chọi thời Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách. Một kỹ thuật kết cấu hiện đại, kết hợp với một cú pháp hiện đại trong văn xuôi, đó là những đóng góp lớn của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam cho văn học nước nhà. Và từ những cách tân trong thơ, tiểu thuyết... Văn học lãng mạn thực sự đã đẩy ngôn ngữ đến mức hoàn thiện.
Văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 phát sinh và tồn tại như một sản phẩm tất yếu của lịch sử. Ngày nay, thật khó mà làm một phép cộng trừ nhân chia đơn giản để rút ra trong hai mặt đóng góp và hạn chế của dòng văn học đó, cái còn lại là gì và bao nhiêu. Phê phán những hạn chế của tác phẩm vàn học, của một nền văn chương là cần thiết. Song cái cần thiết hơn là tìm cho được, với thái độ trân trọng đãi cát tìm vàng, từ tác phẩm đó, nền văn chương đó, những gì cần thiết cho con người, góp phần nâng cao tâm hồn con người. Những điều ấy, ta có thể tìm thấy trong văn học lãng mạn Việt Nam, ít ra là trong rất nhiều tác phẩm. Vả lại, nền văn học nước nhà, tuy có những khúc quanh, những điểm uốn, nhưng vẫn luôn là một sự tiếp tục.