Dường như thơ viết về mùa thu đã rất nhiều, trước Xuân Diệu và cả sau này nữa. Sức hấp dẫn của mùa thu nơi đồng bằng Bắc bộ đã khiến Nguyễn Khuyến không khỏi làm ngơ và cho ra đời chùm thơ thu nổi tiếng. “Đây mùa thu tới của Xuân Diệu cũng chính là sự kế thừa truyền thống đó, tuy nhiên đã được nhà thơ thổi vào đấy nét mới mang âm hưởng của thời đại. Bài thơ cổ điển vừa hiện đại, vừa mang cái buồn của ông cha lại vừa có tiếng reo vui của thế hệ trẻ trước sự giao mùa của thiên nhiên. Quan niệm về thời đại thiên nhiên và thời gian đời người đã ảnh hưởng lớn tới sáng tác của các nhà thơ; khi hè đã qua mà đông thì chưa đến, “nằm áp giữa hai khối khí nóng lạnh đó, thu là một lãnh thổ bị lấn cả đôi đầu nên hay có những trở trời”. Hơn nữa, thu là khoảnh khắc ngưng kì diệu để cho sự vật lần cuối được bừng sắc để rồi đi vào héo úa. Các nhà thơ xưa không làm ngơ trước “phút an lạc vĩnh hằng” này và đã nương gửi cái hài hòa của tâm hồn mình với đất trời thường là những nỗi buồn mang tính suy tưởng, triết lí nhưng lại không bộc lộ rõ mà nấp sau bộ mặt buồn mênh mang, khiến người đọc thơ có cảm giác buồn lây mà vẫn mặc nhiên chấp nhận nó, không cần giải thích. Với Xuân Diệu thì khác, nhà thơ có phản ứng mạnh với các thay đổi của mùa thu. “Đây mùa thu tới” tuy vẫn tiếp mạch buồn của thơ thu cổ nhưng đã biến tấu theo chủ quan của tác giả và theo thời đại, vì thế bài thơ không đơn thuần là sự báo mùa, mà còn là sự hối thúc của thời gian.
Thời đại của Xuân Diệu là thời đại của hy vọng nhưng cũng là thời đại của thất vọng. Xã hội có những “rung chuyển” mạnh mẽ đã hất con người ra khỏi những mối quan hệ tự nhiên - xã hội - con người, chưa tìm được vị trí cho mình trong cuộc đời. Thời đại 30 - 45 là thời đại các nhà thơ tỏ ra bơ vơ, cô độc, lạc lõng và nháo nhác đi tìm chỗ đứng của mình trong cuộc đời. Khi Xuân Diệu nói về Tản Đà, hẳn ông cũng có nghĩ cho cả mình: “Mọi cái cũ đã phá đi và chưa có chút gì của cái mới thay thế; con người chỉ là một cái gì sẽ có thật trong tương lai và là một ảo ảnh của hiện tại”. Đó là lúc con người tự ý thức rõ cá nhân mình, tự khám phá, bộc lộ mình để mong tìm gặp những tâm hồn đồng điệu.
Cái “tôi” trong “Đây mùa thu tới” được biểu hiện trong tiếng reo vui: “Đây mùa thu tới! Mùa thu tới”, tiếng reo được buột miệng rất tự nhiên, hứng khởi, quên đi cả truyền thống buồn của thơ thu, vì thế, ngay sau đó là sự chữa lại: “Với áo mơ phai dệt lá vàng” giọng thơ chùng xuống, trầm lặng một cách o ép. Cũng từ đây, giọng văn mất hẳn sự xôn xao, reo vui đón nhận giao mùa, chủ đề trữ tình cũng “lặn” mất hay đúng hơn biến sang một dạng khác để dễ bày tỏ hơn. Nếu chủ thể tình bộc lộ mình một cách trực tiếp qua niềm vui khám phá đón nhận mùa thu ở trên thì ở khổ dưới, một cách gián tiếp chủ thể trữ tình đã phải khép mình lại, ý tứ hơn với những “nàng trăng tự ngẩn ngơ”, “ít nhiều thiếu nữ buồn không nói”. Trong cái tự ngẩn ngơ kia chưa hẳn đã là quên đi mà chính là nhớ đến. Trạng thái ngẩn ngơ có thể chỉ trạng thái giả, thực tế thì vẫn rất nhạy cảm. Nếu ngẩn ngơ thật thì sẽ không bao giờ thấy được: “non xa khởi sự nhạt sương mờ” không nghe được “rét mướt luồn trong gió” và không cảm được “đã vắng người sang những chuyến đò”. Cái tôi vẫn ẩn nấp đâu đấy chứ chưa hề mất hẳn. Hai câu cuối cùng:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì
chủ đề trữ tình trở lại xuất hiện lần nữa dưới dạng một chủ đề khác nhưng vẫn tiếp nối mạch cảm xúc ở câu trên. Nếu ở trên là “tự ngẩn ngơ” thì ở câu này lại là “buồn không nói”. Không nói nhưng lại nghĩ rất nhiều. Khác hẳn với câu thơ của khổ đầu reo vui, hoan hỉ, câu thơ này mang nét người lớn hơn, mặc dù vẫn là cái lớn ngượng ngập, kiểu cách của các thiếu nữ: Điệu tựa cửa nhìn xa và nghĩ ngợi có vẻ già nua nhưng lại “nghĩ ngợi gì” cũng như “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” mà thôi. Ta sẽ thấy mức độ cảm xúc của cái “tôi” trong bài giảm dần, lúc đầu còn cất lời hồ hởi, phấn chấn, sau đó là trạng thái trẻ con nhưng điệu đàng hơn “tự ngẩn ngơ”, cuối cùng là nét trầm mi lộ rõ trên khuôn mặt “buồn không nói” của thiếu nữ. Phải chăng đó là cá nhân muốn khám phá, được bộc lộ còn chưa đúng lúc đúng chỗ. Hoài Thanh gọi thời đại 30 - 45 là “thời đại chữ tôi” không phải là vô cớ. Hàng trăm định nghĩa về “tôi”: “Tôi là khách bộ hành phiêu lãng” hay “Tôi chỉ là một khách si tình”, lúc thì “Tôi là chim non đến từ núi lạ”... Nhiều cái tôi xưng danh nhưng tất cả đều giống nhau ở sự cởi mở, tự cho mình thoát khỏi những ràng buộc. Đây là nét đổi thay táo bạo trong thơ ca Việt Nam bởi trước đó, trong tư tưởng của nhà thơ cổ không hề có quan niệm về cái tôi như thế mà chỉ là cái “ta” chung chung. Tuy nhiên, trong “Đây mùa thu tới” Xuân Diệu đồng thời thể hiện cái “tôi” song vẫn e ngại, dè dặt nên hay nói khéo, nói tránh. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì sau quan niệm thơ tự do, cởi mở, lãng mạn này chỉ phát huy được trong phạm vi thế giới tình cảm, chứ chưa nhập vào sự đa dạng thực sự của đời sống. Ngay cách gọi “nàng trăng" cũng chỉ được sử dụng giới văn nghệ sĩ chưa phổ biến bởi nó có vẻ gì điệu đàng, câu chữ Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới và lãng mạn nhất trong các nhà thơ mới cũng bởi lối dùng từ, lối cảm thụ văn chương của ông ở mức khác hẳn mọi người. “Hơn một” là bao nhiêu? “ít nhiều” là bao nhiêu? Cách nói của nhà thơ không khỏi gây ngỡ ngàng cho mọi người. Đã thế lại thêm “trong vườn... rủa... xanh” rồi thì “những luồng run rẩy rung rinh lá”, hàng loạt âm "r" tạo cảm giác lành lạnh đang xâm nhập vào chính cơ thể mình và chứng tỏ một con mắt nhìn tinh tế, một khám phá mới lạ. Ta nhớ đến những câu thơ khác của Xuân Diệu:
Cây bên đường, trụi lá đứng tần ngần
Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái
Và giữa vườn mi, hoa run sợ hãi
Bao nỗi phôi pha, khô héo rụng rơi.
(Tiếng gió)
Ở Xuân Diệu cũng như ở nhiều nhà thơ khác, mùa thu thường choáng một chỗ đặc biệt trong thơ. Không chỉ riêng mình Xuân Diệu “buồn không nói” mà nỗi buồn ấy tồn tại trong “vô thức tập thể” của cả một lớp người. Có người gọi đó là thứ “bệnh thời đại”, đó là bệnh muốn được khẳng định, bệnh cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, không có chỗ đứng hay chưa tìm được cho mình chỗ đứng trong cuộc đời. Bởi vậy, cá nhân cô đơn phải tự tìm lấy phương thuốc của mình, tự chữa cho mình. Với Xuân Diệu, ông đã khám phá, tìm ra nét mới của mùa thu. Các nhà thơ khác cùng có cái nhìn mới về mùa thu, nhưng chỉ có Xuân Diệu nói lên lời rằng: “Với lòng tôi trời đất chỉ có hai mùa: Xuân và Thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa có bình minh”. Nhiều chi tiết rất lãng mạn trong bài “Đây mùa thu tới”, đây cũng chính là xu thế chung của thời đại 30 - 4. Các nhà thơ đi tìm cái tinh tế và lãng mạn nhất để qua đó bộc lộ mình. Với Thế Lữ thì:
Mắt lệ đắm trông niềm cách biệt,
Phút giây chừng mỏi gối phiêu lưu...
Với Lưu Trọng Lư thì:
Biết sao trái được tính trời
Giang hồ cốt ấy trọn đời phiêu linh...
hay là Nguyễn Bính:
“Giếng thôi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
Nhưng tất cả không bằng được Xuân Diệu khi ông nói:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Lung linh bóng sáng bỗng rùng mình.
Thơ lãng mạn 30 - 45 là cuộc đi tìm kiếm cái đẹp. Với “Đây mùa thu tới”, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp tự nhiên của mùa thu mà bấy lâu bị mọi người nhìn nó bằng con mắt buồn buồn. Bức tranh thu đẹp bởi sức tưởng tượng mới lạ của Xuân Diệu và hấp dẫn bởi từng chi tiết tinh tế. vẫn là những chất liệu thơ ca quen thuộc khi ông dùng lá, trăng, chuyến đò, mây trời, chim chóc, có điều nó được sử dụng theo lối nói khác hẳn, thiên nhiên không nhất nhất là chuẩn mực cho con ngưòi nữa mà con người đã trở thành nét tiêu chuẩn để nói về thiên nhiên. Khổ thơ đầu nói đến rặng liễu nhưng cách nói như đang hướng người đọc nhìn về một cô gái buồn rượi. Lá liễu rủ vừa được xem là “tóc buồn buông xuống”, vừa được ví là “lệ ngàn hàng”. Lối so sánh thiên nhiên - con người này khá phổ biến ở hiện đại thơ lãng mạn. Anh Thơ trong “Bến đò ngày mưa” cũng nhân hóa thiên nhiên như thế:
Tre rũ rượi ven bờ chen ướt át
Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa.
Nói đến trăng, Xuân Diệu cũng tiếp mạch ví von ấy chứ không chỉ nhắc một cách chung chung “bóng trăng”, “trăng sáng”... mà cụ thể cả cách gọi lẫn cách tả trăng:
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ.
Xuân Diệu nói đến mùa thu nhưng không chỉ nhắc đến sắc vàng vọt của thu nữa mà ông đã mở rộng tầm nhìn để thu về những màu sắc khác làm thay đổi không khí thu bấy lâu. Ngoài sắc áo vàng còn có màu “áo mơ”, đỏ, xanh...
Trong màu sắc đỏ rũa màu xanh.
Nói đây là bài thơ tiêu biểu của thơ ca lãng mạn 30 - 45 có lẽ bởi hồn của bài thơ. Thời đại Xuân Diệu, các tác giả có xu hướng đi tìm cái mới, đi khám phá thiên nhiên để được khẳng định mình nhưng vì phong trào thơ mới, thơ của cái “tôi” còn phải đối đầu gây gắt với thơ cũ nên dù muốn cởi mở lòng mình vẫn có nét e dè, chưa thực sự nói hết lòng mình. Cảm xúc ở “Đây mùa thu tới” với nỗi buồn truyền thống để nói về thu và tâm thế thời hiện đại đang hoang mang như “đứa con lạc mẹ” và phân vân “bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước”.
“Đây mùa thu tới” là một khởi sắc rất đáng kể so với thơ thu trước nó. Bài thơ tập trung miêu tả sự chuyển động của thiên nhiên ở những biểu hiện nhỏ bé, tinh vi nhất nhưng lại thể hiện một tâm hồn thơ mới rộng mở, tiêu biểu cho cả một thời đại. Bài thơ không một dáng vẻ to tát nói về đất trời hay nỗi niềm ẩn sĩ mà là khao khát mạnh mẽ, rất con người là muốn được bộc lộ cá nhân trước sự đổi thay của đất trời.
Xuân Diệu đề cập đến một cái “tôi” cô đơn, đang đi tìm mình trong cuộc đời, những ngẩn ngơ, đìu hiu, buồn không nói, run rẩy, u uất... chứng tỏ điều đó. Cái tôi đó cũng ý thức được bản thân mình trong xã hội nên càng khao khát hơn được bày tỏ cho chúng ta về chính họ, muốn phơi bày tâm hồn, cõi lòng họ. Không chỉ Xuân Diệu tỏ ra đồng cảm với nỗi buồn không nói của ít nhiều thiếu nữ, ngay Thế Lữ (Cây đàn muôn điệu) cũng tỏ bày:
Tôi ngại ca tiếng lòng phấn khởi
Tôi thở than cùng thiếu nữ bâng khuâng.
Xuân Diệu hay Thế Lữ đều muốn được chú ý, muốn được hòa hợp với mọi người và bản thân nhà thơ cũng tỏ ra biết thông cảm. Hơn một lần Xuân Diệu viết về mùa thu với mong muốn được hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với nhau giữa cảnh với nhau:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.
(Thơ duyên)
Khi Xuân Diệu tìm thấy cho mình một “nàng trăng ngẩn ngơ”, thì Lưu Trọng Lư cũng thổn thức với “Tiếng thu”:
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Đều giống nhau ở cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến trước mùa thu chứ không chỉ là cảm xúc buồn, sẵn lòng đón nhận điều gì âm u, tê tái của mùa đông, vẻ đẹp của mùa thu được các nhà thơ phát hiện và tỏ ra thích thú: “Đây mùa thu tới! Mùa thu tới” hay “Em không nghe mùa thu” hay “Thu đến nơi nơi động tiếng huyền” đều là những lời ca vang, reo mừng khi đất trời chuyển mùa. Mùa thu rõ ràng đã trở thành một mùa thu hoàn toàn khác với thơ cổ. Vẫn còn nét buồn cố hữu của thu sang thi nhân đã nhìn nhận nó ở một góc độ khác, tươi mới hơn, lạ lẫm hơn, thậm chí lạ với nét buồn của mùa thu. Chế Lan Viên không chỉ nhận mùa thu mà còn tỏ ra tiếc nuối, muốn níu kéo:
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi một lá vàng
Với nửa hoa tươi muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẻo xuân sang.
Rõ ràng phải có những cảm xúc đặc biệt với mùa thu, các nhà thơ mới ưu ái thu đến thế. Không riêng mình Xuân Diệu biết phấn khởi, hớn hở khi thu đến, nhiều nhà thơ khác cũng cảm mến mùa thu theo cách ấy. Hình như nỗi buồn thời đại cộng với lãng mạn tuổi trẻ có nét giao thoa, gần gũi với mùa thu. Đa phần các nhà thơ lấy cảnh thu để bày tỏ lòng mình.
Với một người luôn “vội vàng”, giục giã, sợ thời gian trôi chảy, tuổi trẻ tàn phai như Xuân Diệu lại càng không thể làm ngơ trước giao mùa dù đó là mùa thu. Mùa thu là mùa đáng buồn nhất trong quan niệm của thơ ca cổ, trung đại. Con người thời ấy luôn tiếc nuối những ngày nắng ấm đã qua, chờ đợi ngày rét mướt, ảm đạm của thu - đông mang tới. Ở thời của Xuân Diệu dường như thi sĩ chỉ quan tâm tới cái hiển hiện của mùa thu, nhà thơ thường khám phá vẻ đẹp hiện tại mà chưa cần bận tâm tới mùa đông cận kề. Nhà thơ nhìn mùa thu bằng con mắt thật của chính mình, không thông qua một ước lệ tượng trưng nào còn rơi rớt lại của thời đại trước, ảo não đến như Huy Cận cũng thấy được một chút gì vương vấn chứ chưa buồn hẳn:
Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi...
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...
Nỗi buồn này cũng với thơ cổ điển; nó mang dáng vẻ lãng mạn tâm lí, dòng tâm linh sâu thẳm, nên ý thơ cũng khó hiểu. Thơ Xuân Diệu cũng khó hiểu nhưng rất thực: “Những luồng run rẩy rung rinh lá” “Cành biếc run run chân ý nhi”...
Với “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, chúng ta thấy nét chung của thơ ca lãng mạn 30 - 45 là sự cởi bỏ mọi ràng buộc, khao khát giải phóng cá nhân, là sự tự do cho tâm hồn bay bổng, đón nhận thiên nhiên, vạn vật. Xu thế chung của thế hệ Xuân Diệu là thấy vui mừng vì được tự do cá nhân, tự do đi tìm những tâm hồn đồng điệu cho mình. Song vẫn còn nét buồn vì dù sao vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của thơ ca trung đại, ý thức hệ tư tưởng về cái “tôi” vẫn chưa định hình rõ nét và buồn hơn cả vì chưa khẳng định được bản thân, chưa tạo được cho mình thế đứng riêng, độc lập. “Đây mùa thu tới” mang được nét lớn đó vào nội dung của bài thông qua nghệ thuật biểu hiện rất tài tình của Xuân Diệu. Trong bài có cả niềm vui được chứng kiến, được đón nhận mùa thu với đổi thay mới mẻ, lạ lẫm, gây tò mò cho những con người vừa “trẻ tuổi” vừa “trẻ lòng”. Còn nét buồn chủ yếu là do cá nhân cảm thấy thời gian cứ trôi, tuổi trẻ có giới hạn mà con người vẫn chưa làm được gì để khẳng định mình. Thiên nhiên trong “Đây mùa thu tới” vừa tả khái quát sự giao mùa, vừa đặc tả sự chuyển động, trở mình của mùa thu ở mức rất tinh vi, tinh tế.
Thời đại thơ lãng mạn 30 - 45 đã qua những âm vang và những gì nó để lại cho thơ ca Việt Nam thật đáng giữ gìn. Đó là một cuộc cách mạng thực sự làm thay đổi nhãn quan thơ, cách cảm thụ, đánh giá thơ. Mở ra cho thơ ca Việt Nam một hướng đi mới, một kiểu sáng tác mới tiến bộ hơn thơ ca cổ. Thơ lãng mạn đáp ứng được nhu cầu biểu hiện và tiếp nhận của quần chúng. Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất và có những đóng góp lớn lao cho nền văn học đó. Bức tranh thu “Đây mùa thu tới” của ông được xem là tiêu biểu cho thơ lãng mạn 30 - 45 cũng bởi chất lãng mạn thời đại thấm nhuần trong từng câu chữ. Đúng như đánh giá về Xuân Diệu “ông là nhà thơ lãng mạn, là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. (Hoài Thanh — Thi nhân Việt Nam).