Có thể nói bài thương vợ là một bài thơ tâm sự thấm đượm nghĩa yêu thương. Mở đầu bài thơ Tú Xương đã khắc hoạ hình ảnh của vợ mìnhvới bao vất vả lo toan.
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng"
Ở đây bà Tú là một người vợ hiền thục, đảm đang và cũng chịu thương chịu khó. Được mang danh là bà Tú nhưng bà lại phải "quanh năm buôn bán ở mom sông". Từ "quanh năm" như khẳng định một cái vòng xoáy của thời gian cũng là vòng quay trong công việc của bà. Công việc của bà cứ liên tiếp nối nhau cho đến hết ngày này qua ngày nọ. Nó không chỉ là cơ cực, vất vả , dải nắng dầm mưa mà đôi vai nhỏ bé của bà phải ghánh chịu, mà bà còn phải ghánh chịu bao mánh khoé của cuộc đời đen bạc. Rồi những khi thời tiết càng khắc nhiệt, địa thế càng khó khăn hiểm trở thì bà lại phải cố gắng nhiều hơn để "nuôi đủ năm con với một chồng" không chỉ nuôi đủ cho ông Tú mà còn phải "nuôi đủ năm con". Tác giả không nói vợ mình nuôi đủ sáu người mà lại nói "nuôi đủ năm con với một chồng"ở đây từ "với" đã làm tăng thêm sự đông đúc trong gia đình. Sự vất vả của bà lại càng nặng thêm:
"Lặn lội thân cò khi quảng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông"
Hình ảnh "thân cò khi quảng vắng" đã đêm đến cho người đọc nhiều liên tưởng xúc động qua ca dao:
"Con cò lặn lội bờ sông
Ghánh gạo nuôi chồng nước mắt nỉ non"
Hoặc:
"Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao."
Khi màn đêm buông xuống thì tất cả đã vào giấc ngủ say mê sau một ngày lao động mệt mỏi thì cò còn phải mò mẫm trong đêm tối để kiếm ăn. Phải chăng đây là hình ảnh của bà Tú? Bằng cách sử dụng các từ láy "eo sèo", "lặn lội". Tú Xương đã làm tăng thêm tính cam go, dai dẳng trong công việc của vợ mình.
Trong hoàn cảnh ấy thì con người thường có ý nghĩa tiêu cực nhưng đối với bà Tú thì bà không than thân, trách phận mà tự an ủi mình:
"Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công"
Bà Tú lấy ông Tú xuất phát từ cái duyên, cái số, từ dây tơ hồng của ông Tơ bà Nguyệt. Chính vì lẽ đó dù"năm nắng mười mưa" để lo cho gia đìnhbà cũng" âu đành phận"và" chẳng dám quản công". Hơn nữa bà Tú sống với ông Tú đã có năm con, cùng nhau chia ngọt sẽ bùi, vượt qua bao sống gió nên bà hiểu rõ ông, do đó mà bà không hề than vãn.
Phải chăng hiểu được vợ mà ông tú đã" thương vợ "hơn, muốn cùng vợ ghánh vác lo toan, nhưng:
"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không."
Có lẽ đây là lời nói của tác giả, thương vợ, thương cho mình, Tú Xương đã mượn lời vợ mình để "chưởi" cả một cái xã hội với bao thói đời ăn ở bạc, bất công vì những người có tài như ông mà trở thành người thừa trong xã hội, Ông còn chưởi chính mình vì ông cho rằng ông là người chồng hờ hững, vô tích sự.
Qua đây ta thấy bài "thương vợ" là một bài thơ hay của tác giả với phong cách trữ tình. Bài thơ miêu tả bà Tú nhưng ẩn đằng sau đó là một người mẹ, người chị , người vợ và người phụ nữ Việt Nam xưa và nay. Đó là một con người phụ nữ dịu dàng, đảm đang, tháo vát. Họ chỉ biết làm việc để lo toan cho chồng cho con. Ngoài ra bài thơ hay còn ở cách thể hiện của tác giả mượn lời vợ để chưởi mình . chưởi cái xã hội hiện tại.