Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Soạn Ngữ văn 9, bài 4: Thực hành tiếng Việt trang 93 - Sách Kết nối tri thức

Thứ bảy - 15/06/2024 02:33
Soạn Ngữ văn 9 sách Kết nối tri thức, bài 4: Thực hành tiếng Việt - Trang 93.

* Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp

Câu 1 trang 93: Xác định phần dẫn trong các câu sau, cho biết phần đó được dẫn theo cách trực tiếp hay gián tiếp. Những dấu hiệu nào giúp em nhận ra điều đó?
a. Khi chồng ra đi, nàng giãi bày nỗi niềm của mình: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu […], chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.
(Nguyễn Đăng Na, “Người con gái Nam Xương” - một bi kịch của con người)
b. Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy.
(Đoàn Giỏi, Đất rừng phương Nam)
Trả lời:
a. Phần dẫn trong câu là: Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn hầu […], chỉ xin ngày vè mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.
=> Đây là phần dấn theo cách trực tiếp. Dấu hiệu: phần dẫn được đặt sauu dấu hai chấm và trong dấu ngoặc kép.
b. Phần dẫn trong câu là: Người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy.
=> Đây là phần dẫn theo cách gián tiếp lời của thầy giáo. Dấu hiệu: phần dẫn không được đặt trong dấu ngoặc kép

Câu 2 trang 94: Hãy chuyển cách dẫn trực tiếp trong các câu dưới đây sang cách dẫn gián tiếp:
a. Nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo đẳng mãi lấy nàng, nếu như không có một đêm tình cờ đứa bé nói: “Cha Đản lại đến kia kìa!”
b. Thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn đã khẳng định: “Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rập rạp, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong kí ức và kinh nghiệm của đồng bào tôi.”
c.Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã bộc lộ thành thực một tâm trạng: “Dầu có ưa thơ người này người khác, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ cứ vương vấn trong trí tôi hàng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”.
Trả lời:
a. Nếu như đứa bé không tình cờ thông báo sự xuất hiện của cha Đản trong một đêm, nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo dẳng mãi lấy nàng.
b. Theo thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn, đối với đồng bào của ông, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm của côn trùng đều là những điều thiêng liêng trong kí ức và kinh nghiệm của đồng bào ông.
c. Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã bộc lộ rằng, ông đều nhớ về Lưu Trọng Lư mỗi lúc buồn. Thơ Lưu Trọng Lư vương vấn trong tâm trí Hoài Thanh hàng tháng, lúc nào cũng văng vẳng bên tai. Thơ Lưu Trọng Lư nhiều bài không thật sự là thơ, mà còn là tiếng lòng thổn thức hòa cùng tiếng thổn thức của mỗi người.

Câu 3 trang 93: Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 5 - 7 câu) có nội dung liên quan đến ý kiến dưới đây, trích dẫn ý kiến đó theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp:
Cái tài của Nguyễn Dữ là ông đã dung hòa được hiện thực với ước mơ, giữa cái tồn tại với cái ảo ảnh.
Trả lời:
Bình luận về tài năng của Nguyễn Dữ khi xây dựng hình tượng người phụ nữ trong văn bản “Người con gái Nam Xương”, Nguyễn Đăng Na đã khẳng định: “Có thể nói, với “Người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã vượt khỏi những công thức thông lệ về hình tượng người phụ nữ trong thể truyền kì. Theo công thức thông thường, người phụ nữ trong xã hội xưa là những người phụ nữ đẹp, có đủ công dung ngôn hạnh. Thậm chí họ còn có tài năng. Đáng ra cần được trân trọng. Nhưng những lễ giáo phong kiến lại ràng buộc và chà đạp họ không thương xót, họ phải chịu những bất công ngang trái và bi kịch, thậm chí là cả cái chết. Nguyễn Dữ đã vượt qua khuôn mẫu thông thường, thể hiện tấm lòng trân trọng ngợi ca với số phận bất hạnh của những người phụ nữ. Nhà văn đã lên tiếng nói bênh vực và thể hiện niềm tin vào họ. Vũ Nương đẹp, công dung ngôn hạnh nhưng chịu số phận bi kịch. Phải sống người chồng hồ đồ độc đoán gia trưởng như Trương Sinh, nên cái chết là tất yếu. Nhưng Vũ Nương khi chết đi, được Linh Phi cứu và sống dưới thủy cung. Người phụ nữ bị oan thì nhất định được giải oan, ngay ở kiếp này chứ không phải ở kiếp khác. Đây chính là điểm mới, vượt qua công thức, khuôn mẫu thông thường về hình tượng người phụ nữ trong thể truyền kì.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây