Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Soạn Ngữ văn 9, bài 2: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Sách Cánh diều

Thứ hai - 10/06/2024 04:55
Soạn Ngữ văn 9 Sách Cánh diều, bài 2: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Trang 44, ...

1. Chuẩn bị

Yêu cầu trang 44:
- Đọc trước đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
- Đọc nội dung giới thiệu dưới đây để tìm hiểu bối cảnh đoạn trích:
Trả lời:
Sau khi bị Mã Giám Sinh làm nhục, biết mình bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều liều mình tự vẫn. Mụ chủ nhà chứa sợ “mất cả vốn lẫn lời” nên đã vờ hứa hẹn sẽ gả chống cho Kiều, rồi đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích để kén chồng nhưng thực chất là giam lòng và chuẩn bị âm mưu, hóng bắt nàng phải tiếp khách làng chơi.
Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc.
 

2. Đọc hiểu

* Trả lời câu hỏi giữa bài:

Câu 1 trang 45: Chú ý việc sử dụng từ ngữ để diến tả hoàn cảnh của Kiều.
Trả lời:
– Đặc điểm không gian trước lầu Ngưng Bích: đó là rất rộng lớn, mênh mông và bát ngát cụ thể qua những từ như “non xa”, “trăng gần”, “bát ngát”. Không gian ở lầu Ngưng Bích lại được miêu tả mở ra theo chiều cao, chiều xa. Chúng ta có thể thấy, hình ảnh thể hiện sự chênh vênh, chơi vơi, vô cùng đơn độc giữa không gian bao la đó. Cảnh ở lầu Ngưng Bích còn được mieu tả rất trống trải, hoang vắng, dường như không có dấu hiệu của sự sống. Điều được thể hiện cụ thể qua những từ ngữ và hình ảnh như “cát vàng”, “bụi hồng”, “cồn nọ”, “dặm kia”. Tất cả hình ảnh tạo nên sự phủ định sự sống, gợi sự ngổn ngang của cảnh vật.
– Thời gian qua cảm nhận của Thúy Kiều qua hình ảnh “mây sớm đèn khuya” cho thấy sự lặp đi lặp lại quay vòng của thời gian. Tạo một cảm giác nhàm chán, buồn tẻ.
– Qua khung cảnh thiên nhiên trên đây, chúng ta có thể có thể thấy rõ hoàn cảnh và tậm trạng của Thúy Kiều khi ở Lâu Ngưng Bích. Đó là nàng đang bị giam lỏng, mất tự do ở chốn thơ mộng hữu tình nhưng hoang vắng. Và nàng mang trong mình một tâm trạng cô đơn, buồn tủi và đầy sự hổ thẹn.
– Những từ ngữ góp phần diễn tả hoàn cảnh vầ tậm trạng Thúy Kiều đó chính là: “khóa xuân”, “non xa”, “trăng gần”, “bốn bề”, “Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”…

Câu 2 trang 45: Chú ý biện pháp tả cảnh ngụ tình.
Trả lời:
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là nghệ thuật mà trong đó tác giả đã mượn khung cảnh để gửi gắm tâm trạng nhân vật. Cảnh không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng của con người. Cảnh là phương tiện miêu tả còn tâm trạng mới chính là mục đích miêu tả. Trong văn học xưa, phương pháp này được sử dụng khá nhiều và quen thuộc. Với tài năng của mình, nhà thơ Nguyễn Du đã cho thấy mình là một trong những bậc thầy của việc sử dụng nghệ thuật này. Và chính ông cũng đã từng khẳng định “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
– Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng trong tám câu cuối của đoạn trích:
+ Hai câu thơ: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.” khung cảnh thiên nhiên cửa bể buổi chiều hôm và cánh buồm nhỏ xa xăm, vừa thể hiện nỗi nhớ thương cha mẹ, quê hương của Thúy Kiều, vừa thể hiện sự vô định, lạc trôi giữa biền đời bất định của cuộc đời nàng.
+ Hai câu thơ: “Buồn trông mặt nước mới sa/Hoa trôi man mác biết là về đâu” tác giả thể hiện nỗi nhớ người yêu, xót xa cho tình duyên lỡ dở của Kiều. Hình ảnh những cánh hoa trôi giữa dòng nước cũng giống như cuộc đời của Kiều bị vùi dập lúc bấy giờ.
+ Hai câu thơ: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” thể hiện sự Kiều đang buồn tủi, đau đớn cho chính bản thân mình. Nội cỏ rầu rầu một màu thật đơn điệu, như chính sắc màu cuộc đời buồn tẻ, nhàm chán của nàng.
+ Hai câu thơ: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” đây là câu thơ khiến người đọc cảm nhận được âm thanh của tiếng sóng vỗ đang kêu. Nhưng tiếng sóng đó cũng chính là tiếng sóng trong bể giông đang bủa vây lấy cuộc đời của nàng Kiều. Qua tiếng sóng, Kiều dự cảm được điều đó nên càng thấy xót xa và đau đớn.

Câu 3 trang 45: Dự cảm tương lai được thể hiện qua hình ảnh nào?
Trả lời:
Hình ảnh: hoa trôi man mác, cánh buồm xa xa, nội cỏ rầu rầu, ầm ầm tiếng sóng
 

* Trả lời câu hỏi cuối bài:

Câu 1 trang 46: Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể chia làm mấy phần? Trình bày nội dung chính của mỗi phần?
Trả lời:
- Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể chia làm ba phần:
+ 6 câu đầu: Hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của Thúy Kiều
+ 8 câu tiếp: Nỗi nhớ thương Kim Trọng và nhớ thương cha mẹ của Kiều
+ 8 câu cuối: Tâm trạng đau buồn và dự cảm trước tương lai sóng gió

Câu 2 trang 46: Khung cảnh được miêu tả ở sáu dòng thơ đầu có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện tâm trạng Thuý Kiều?
Trả lời:
Khung cảnh thiên nhiên được miêu tả là khung cảnh trước lầu Ngưng Bích qua điểm nhìn từ trên cao, từ tâm trạng của Kiều. Tác giả sử dụng từ ghép “bốn bề” đứng cạnh từ láy “bát ngát” gợi không gian rộng lớn không một bóng người. Cảnh vật gợi cảm giác cô đơn, rợn ngợp. Từ láy “bẽ bàng”: diễn tả nỗi xấu hổ tủi thẹn của Kiều, trong tâm trí nàng vẫn còn in đậm những sự việc vừa mới xảy ra: bị Mã Giám Sinh làm nhục, bị ép làm gái lầu xanh rồi giờ bị giam lỏng nơi đây. Thành ngữ “mây sớm đèn khuya” chỉ thời gian tuần hoàn khép kín, một mình Kiều nơi đây làm nổi bật nỗi bơ vơ. Phép so sánh “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” nói lên nỗi lòng Kiều như bị chia ra làm hai, nửa dành cho cảnh nửa dành cho tình. Sáu câu thơ đầu được xây dựng bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả cảnh hoang vắng quạnh hiu để khắc họa rõ tâm trạng cô đơn của Kiều

Câu 3 trang 46: Thuý Kiều lần lượt nhớ những ai? Theo em, trình tự nỗi nhớ đó có hợp lí không? Vì sao?
Trả lời:
Trong cảnh giam lỏng, nàng nhớ tới Kim Trọng, sau đó nhớ về cha mẹ. Đó là trình tự hợp lí, bởi với cha mẹ, nàng đã gặp trước lúc cách xa, nàng cũng đã bán thân cứu cha nên vơi bớt nỗi lo và làm tròn chữ hiếu. Nhưng với người nàng thương, Kim Trọng, chàng chưa biết tin gì về gia biến nhà nàng và nàng đau đớn, day dứt vì đã không giữ được lời thề bên chàng Kim.

Câu 4 trang 46: Theo em, tám dòng thơ từ dòng 7 đến dòng 14 trong đoạn trích là lời của ai? Vì sao em biết điều đó? Những lời này có tác dụng gì trong việc thể hiện nội tâm nhân vật?
Trả lời:
- Tám dòng thơ từ dòng 7 đến dòng 14 trong đoạn trích là lời của Thuý Kiều. Đó là nỗi nhớ thương của Kiều về người yêu và cha mẹ.
- Ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du đã miêu tả tâm lí của Thuý Kiều vô cùng chân thực và chính xác. Chỉ với tám câu thơ, nhưng ông đã làm nổi bật nên tâm trạng của Kiều khi bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích. Dù ở hoàn cảnh cô đơn, lạc lõng, mịt mù về tương lai thế nhưng Kiều vẫn là một người con hiếu thảo, một người tình hết mực thuỷ chung, son sắt. Trong đoạn thơ này, Nguyễn Du cũng kết hợp sử dụng các thành ngữ, các điển tích điển cố, các từ ngữ vô cùng chính xác để miêu tả tâm trạng của Kiều. Ông quả là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ miêu tả.

Câu 5 trang 46: Kiều ở lầu Ngưng Bích được coi là một trong những đoạn trích thể hiện tài năng của Nguyễn Du trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Hãy phân tích tám dòng cuối để làm sáng rõ điều đó.
Trả lời:
Cảnh vật là hư, đây là tâm trạng chứ không phải cảnh thực. Mỗi cảnh có nét riêng đồng thời lại có nét chung diễn tả tâm trạng của Kiều. Cánh buồm nhỏ xa xăm vô định như cuộc đời nàng giữa biển đời vô hướng. Cánh hoa bị vùi dập như số kiếp trôi nổi của nàng. Nội cỏ rầu rầu một màu đơn điệu như màu sắc cuộc đời nàng tẻ nhạt. Gió cuốn, sóng ầm ầm chính là dông tố cuộc đời, một nỗi bàng hoàng lo sợ. Điệp ngữ “Buồn trông” lặp lại bốn lần đặt ở đầu mỗi câu lục diễn tả đôi mắt buồn nhìn và bao trùm lên hết thảy cảnh vật. Nguyễn Du đã kết hợp không gian xa đến gần, thu vào tâm tư người con gái nỗi cô đơn, sầu nhớ, đau đớn và lo sợ. Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình, nhà thơ đã khắc họa tâm trạng lạc lõng, cô đơn, đầy âu lo của Thúy Kiều về số phận của chính mình.

Câu 6 trang 46: Dựa vào 14 dòng thơ đầu, em hãy chuyển thành một đoạn văn xuôi.
Đoạn văn 1:
Vì để cứu cha nên Thúy Kiều đã phải hy sinh bản thân mình. Nàng bị Mã Giám Sinh lừagạt, bị Tú Bà ép tiếp khách làng chơi, chính vì nàng đã tìm đến cái chết. Có lẽ vì sợ mất tiền cũng như danh tiếng nên tú Bà vội khuyên can, vờ hứa hẹn, chăm sóc Thuý Kiều. Mụ đưa Thuý Kiều đến sống ở lầu Ngưng Bích. Nàng sống ở đó như bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là chiếc lầu hoang vắng, nằm trơ trọi giữa bốn bề mênh mông trời nước. Nó rất cao, cho nên từ trên lầu nhìn ra chỉ thấy mây mù, cồn cát bụi bay mù mịt. Nàng sống ở đó chẳng có bạn có bè, lủi thủi một mình suốt đêm. Không gian càng xa rộng, lòng người càng thêm trống trải, đau buồn. Sự tuần hoàn của thời gian, sự đằng đẵng mỏi mòn, càng thêm vô vọng. Tâm trạng của Kiều đầy đau buồn, xấu hổ, tủi thẹn với thiên nhiên, với lòng mình, với những người thân yêu. Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa. Nàng nhớ đến Kim Trọng- người đàn ông nàng yêu nhất. Rồi Kiều nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng trông, thương cho cha me ngày càng già, day dứt không được ở cận kề chăm sóc. Nàng thương xót cho cha mẹ suốt ngày trông ngóng tin con.

Đoạn văn 2:
Bước chân vào lầu Ngưng Bích thì Thúy Kiều đã biết rằng nơi này sẽ chôn vùi cả tuổi xuân tươi đẹp của mình. Đứng trên lầu cao nhìn ra xung quanh, Thúy Kiều chỉ thấy dãy núi trập trùng và mảnh trăng xa vắng, nhìn thì xa ngút tầm mắt nhưng thực ra chúng cũng chỉ ở chung một vòm trời với Thúy Kiều. Xung quanh Thúy Kiều là bốn bề bát ngát, những cồn cát vàng, những bụi hồng gai đang. Nhìn những cảnh vật như xa, như gần, như hư, như thực xung quanh, Thúy Kiều càng thấm thía sự nhỏ bé và nỗi cô đơn đến cùng cực của bản thân. Sống ở lầu Ngưng Bích, nàng đã sống một cuộc sống tẻ nhạt, vô nghĩa, bị giam cầm cả về thể xác và tâm hồn. Thúy Kiều đau đớn cho phận mình, biến cố ập đến khiến nàng mất đi tất cả: tình yêu, hạnh phúc và cả tự do. Không chỉ bị Mã Giám Sinh lừa mà Thúy Kiều còn lưu lạc đến chốn hồng trần, muốn thoát ra nhưng lại chẳng có cách nào. Dường như cảnh vật xung quanh cũng đồng cảm với nỗi đau của Thúy Kiều, cành cỏ ngọn cây đều mang sự u sầu, nhìn chúng càng cảm thấy trống trải, cô đơn, khắc khoải. Thúy Kiều nhớ về những ngày tháng bình yên và hạnh phúc xưa kia, nhớ về cuộc gặp gỡ tình cờ và mối lương duyên với Kim Trọng. Chàng là mối tình đầu của Thúy Kiều, là người đã cùng Thúy Kiều thề hẹn ước nguyện. Tình yêu của nàng dành cho Kim Trọng chưa từng đổi thay, thế nhưng giờ đây đã không còn xứng với tình yêu của chàng nữa. Thúy Kiều lại nhớ về cha mẹ mà lòng xót thương, những người sinh thành  nhưng giờ Thúy Kiều lại không thể phụng dưỡng, chăm sóc lúc về già.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây