Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Soạn văn 8 sách Kết nối tri thức, bài 5: Củng cố, mở rộng - Trang 120

Thứ năm - 13/07/2023 05:04
Soạn văn 8 sách Kết nối tri thức, bài 5: Củng cố, mở rộng - Trang 120.
Câu 1 - Trang 120: Nêu các thủ pháp trào phúng của thể loại hài kịch, truyện cười qua các văn bản đã học trong bài.

Trả lời:
Các thủ pháp trào phúng của thể loại hài kịch, truyện cười qua các văn bản đã học trong bài: châm biếm – mỉa mai, đả kích, hài hước.

Câu 2 - Trang 120: Từ các văn bản đã học đó, em nhận thấy tiếng cười có sức mạnh như thế nào đối với đời sống con người?

Trả lời:
Tiếng cười trong các văn bản có sức mạnh: mua vui cho người đọc, đồng thời phê phán những thói hư, tật xấu của con người.

Câu 3 - Trang 120: Tìm đọc một số vở hài kịch và truyện cười viết về những thói xấu của con người. Chọn trong số đó một tác phẩm em thích nhất và trả lời các câu hỏi sau:
a. Tác phẩm phê phán thói xấu nào?
b. Thủ pháp trào phúng là gì?
c. Chi tiết nào em thấy thú vị nhất?

Trả lời:
a. Tác phẩm Thầy bói xem voi phê phán:
- Cả năm thầy đều có cách xem phiến diện: sờ một bộ phận nhưng đã nói cả con voi.
- Các thầy đều không chịu lắng nghe ý kiến của nhau mà chỉ một mực theo ý kiến chủ quan của mình.

b. Thủ pháp trào phúng: Cách các thầy bói xem voi và phán về voi là: dùng tay để sờ vì mắt các thầy đều mù. Mỗi thầy chỉ sờ được một bộ phận của voi, sờ được bộ phận nào thì phán hình thù con voi như thế. Thái độ của năm ông thầy bói khi phán về voi: Cả năm ông thầy bói đều phán sai về voi nhưng ai cũng một mực theo ý kiến chủ quan của mình và cho rằng ý kiến của người khác là sai.

c. Chi tiết thú vị nhất:
Mỗi thầy nêu một ý kiến riêng, không ai chịu lắng nghe ai.

Câu 4 - Trang 120: “Cười là một hình thức chế ngự cái xấu”. (Phương Lựu – Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà, Lí luận văn học, tập 1, NXB Giáo dục, 1986, tr. 241).
Hãy viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên.

Đoạn văn mẫu 1:
Thông qua những tác phẩm, câu chuyện đã được học, chúng ta thấy tác giả sử dụng nhiều nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật châm biếm, mỉa mai vừa mang tính chất hài huớc vừa mang tiếng cười cho người đọc. Tiếng cười ấy là tiếng cười vui vẻ, mỉa mai để rồi cũng từ tiếng cười đó mà cái xấu được chế ngự. Người ta cười mình vì ngưỡng mộ, khâm phục hay là giễu cợt, châm biếm? Bản thân mình phải nhìn lại chính mình. Nếu là điều người ta ngưỡng mộ thì cứ thế mà phát huy. Nếu là giễu cợt thì phải coi lại bản thân mình đã làm điều gì chưa phải, không đúng? Như vậy, cũng nhờ tiếng cười mà bản thân mỗi chúng ta có dịp để nhìn nhận, phản tỉnh lại mình.

Đoạn văn mẫu 2:
Cái hài trong truyện cười dân gian được biểu hiện qua tiếng cười ở nhiều góc độ: cái cười đả kích, châm biếm, giễu cợt, cái cười vui, trên cơ sở phản ánh các hiện tượng xã hội đa dạng của đời sống con người, nhưng điểm nổi bật là tiếng cười có tính triết lý xã hội sâu sắc. Truyện cười dân gian là sản phẩm nghệ thuật của nhân dân lao động, ở đó, nhân dân đã dùng tiếng cười như một vũ khí của chính nghĩa, của đạo đức để lên án cái xấu, cái phi nghĩa, vô đạo đức. Cái cười tố cáo, quan lại, vua chúa tham lam, dâm ô, trụy lạc, buôn thần, bán thánh là tiếng cười trí tuệ, vượt xa cái cười giải trí. Nó phơi bày ung nhọt của xã hội, sự mục rỗng của xã hội. Tuy chưa đủ sức công phá trước thành trì của chế độ phong kiến nhưng tiếng cười này có ý nghĩa kéo nhanh hơn sự xuống dốc của chế độ phong kiến lỗi thời, góp phần mở đường cho sự tiến bộ của xã hội tốt đẹp hơn. Ý nghĩa thẩm mỹ của cái hài trong truyện truyền thống là vạch trần cái xấu núp bóng cái đẹp để khẳng định cái đẹp, lấy cái đẹp làm tiêu chuẩn để nhận dạng cái xấu.
 

  Ý kiến bạn đọc

DANH MỤC

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây