Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Đáp án cuộc thi: tìm hiểu về biên giới và bộ đội biên phòng

Thứ ba - 25/02/2020 03:57
Đáp án cuộc thi: tìm hiểu về biên giới và bộ đội biên phòng chào mừng kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống bộ đội biên phòng và 30 năm ngày biên phòng toàn dân.
Đáp án cuộc thi: tìm hiểu về biên giới và bộ đội biên phòng
Câu 1: Công an nhân dân vũ trang (Bộ đội Biên phòng ngày nay) được thành lập ngày, tháng, năm nào? Ý nghĩa của việc ra đời lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia?

- Công an nhân dân vũ trang (Bộ đội Biên phòng ngày nay) được thành lập ngày, tháng, năm:
Ngày 19 - 11 - 1958, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) ra Nghị quyết số 58/NQ-TW “Về việc thành lập lực lượng Cảnh vệ nội địa và biên phòng”. Đây là nghị quyết đầu tiên của Đảng về công tác biên phòng, nội địa và giới tuyến, khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của biên giới quốc gia. Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ của lực lượng Cảnh vệ là: Trấn áp mọi hành động phá hoại của bọn phản cách mạng trong nước và bọn phản cách mạng ngoài nước xâm nhập phá hoại nước ta, luôn luôn sẵn sàng, chiến đấu để bảo vệ an ninh biên giới, bờ biển, giới tuyến và nội địa, bảo vệ an toàn cho các cơ sở kinh tế, văn hóa quan trọng.

- Ý nghĩa của việc ra đời lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia:
Bộ đội Biên phòng là một bộ phận quan trọng của Quân đội nhân dân Việt Nam, được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, giữ gìn an ninh trật tự trong khu vực biên giới; quản lý, kiểm soát xuất, nhập cảnh, đấu tranh chống tội phạm; tham gia làm công tác đối ngoại... Phần lớn cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đóng quân ở nơi biên giới, hải đảo; công tác, chiến đấu, sinh hoạt ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, môi trường khắc nghiệt, điều kiện sinh hoạt có nhiều khó khăn; nhiệm vụ của các đồng chí rất quan trọng, rất vẻ vang, nhưng cũng rất nặng nề. Bộ đội Biên phòng gắn bó máu thịt với nhân dân các dân tộc, “cùng ăn, cùng ở với đồng bào”, đóng quân ở những nơi “chân đạp mây bay, tóc vờn gió núi”, phải xa gia đình, xa vợ con, điều kiện để quan tâm, chăm sóc cha mẹ rất hạn chế.

Câu 2: Từ khi ra đời đến nay, Công an nhân dân vũ trang (BĐBP) có bao nhiêu đơn vị, cá nhân được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND? Toàn lực lượng mấy lần được tuyên dương danh hiệu Anh hùng? Có bao nhiêu tập thể, cá nhân được tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND lần thứ 2?

Cách đây 58 năm, ngày 3/3/1959, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 100 về việc thành lập một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân vũ trang, tiền thân của Bộ đội Biên phòng (BĐBP) ngày nay.

Ngay từ khi thành lập, tuy trang bị còn thô sơ, thiếu thốn mọi mặt, địa bàn hoạt động rộng, xa xôi hẻo lánh, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt... nhưng cán bộ, chiến sĩ BĐBP đã đoàn kết một lòng, vượt qua khó khăn thử thách, nhanh chóng triển khai lực lượng xây đồn, lập trạm; tuyên truyền, vận động nhân dân lập bản, xây dựng cơ sở chính trị, lập lên phòng tuyến nhân dân, chiến đấu tiễu phỉ, chống gián điệp, biệt kích, bảo vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến quân sự tạm thời; bảo vệ Đảng, Nhà nước và các mục tiêu nội địa quan trọng thuộc 33 khu, tỉnh, thành miền Bắc và thủ đô Hà Nội.

Trong công cuộc đấu tranh, giành độc lập tự do và thống nhất đất nước, BĐBP luôn nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, đoàn kết hiệp đồng trong các lực lượng vũ trang, chiến đấu ngoan cường để bảo vệ lãnh tụ và cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. BĐBP tích cực tham gia chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc, kiên cường chiến đấu bảo vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến quân sự, các mục tiêu quan trọng ở nội địa, góp phần bảo vệ an toàn tuyến hành lang vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam. Đồng thời cử nhiều đội công tác đặc biệt sang giúp nước bạn Lào xây dựng cơ sở chính trị, vận động nhân dân tham gia quân đội, ủng hộ cách mạng Lào.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, từ 1975-1986, BĐBP quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, đấu tranh chống kế hoạch hậu chiến của địch, tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới và làm nhiệm vụ quốc tế, giúp nhân dân Campuchia đấu tranh chống lại chế độ diệt chủng Pôn Pốt.

Trong thời kỳ đổi mới, là lực lượng nòng cốt đảm trách việc quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, BĐBP đã chủ động, nhạy bén tham mưu, đề xuất và trực tiếp triển khai thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp đổi mới công tác biên phòng, xây dựng thế trận và các phương án chiến đấu, đấu tranh với các hoạt động xâm nhập phá hoại của bọn tình báo, gián điệp, phản động lưu vong và các loại tội phạm, buôn lậu, gian lận thương mại. BĐBP đã chủ động phối hợp với các ngành, các cấp, các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia; xây dựng nền biên phòng toàn dân, thực hiện có hiệu quả công tác đảm bảo an ninh, quốc phòng, đối ngoại của Đảng, Nhà nước.

Trong suốt 58 năm qua, dưới sự lãnh đạo, rèn luyện của Đảng, của Bác Hồ kính yêu và được nhân dân thương yêu, đùm bọc, lực lượng BĐBP luôn phát huy truyền thống anh hùng trong chiến đấu, rèn luyện, khắc phục khó khăn, bám trụ nơi tuyến đầu biên giới, biển đảo, đồng cam cộng khổ, đoàn kết một lòng, gắn bó máu thịt với nhân dân, xây dựng “biên giới lòng dân”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, giữ yên bờ cõi của Tổ quốc. BĐBP đã lập nên nhiều chiến công và thành tích vẻ vang, được Đảng, Nhà nước 2 lần ghi nhận, tuyên dương đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (12/1979 và 2/2009); được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (2/2004); 3 Huân chương Hồ Chí Minh (2/1979, 2/1989 và 3/2015); 2 Huân chương Độc lập: hạng nhất (1/1994), hạng nhì (8/1966); 2 Huân chương Quân công: hạng nhất (3/1977), hạng ba (3/1974) và nhiều phần thưởng cao quý khác. 148 tập thể và 64 cá nhân trong lực lượng BĐBP được phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; hàng chục ngàn đơn vị, cá nhân được tặng thưởng nhiều huân, huy chương và những phần thưởng cao quý.

Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, trang sử hào hùng của BĐBP đang được viết tiếp bởi những người lính quân hàm xanh quả cảm, hết lòng vì nước vì dân.

Câu 3: Luật Biên giới Quốc gia được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày, tháng, năm nào? Có bao nhiêu Chương, Điều? Nội dung Điều nào quy định về nhiệm vụ chung của BĐBP?

Ngày 17-6-2003, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam (khóa XI) đã thông qua Luật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về biên giới quốc gia (gọi tắt là Luật BGQG); gồm 6 chương, 41 điều.

Đặc biệt, Điều 31 Luật BGQG quy định: BĐBP là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, phối hợp với lực lượng Công an nhân dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội ở KVBG...

Câu 4: Văn bản nào quy định về “Ngày Biên phòng”? “Ngày Biên phòng” có những nội dung gì? Đến khi nào được xác định là “Ngày Biên phòng toàn dân”?

Quyết định 6-HĐBT đưa ra quyết định hàng năm lấy ngày 3-3 là Ngày Biên phòng, bắt đầu từ ngày 3 tháng 3 năm 1989 kỷ niệm 30 năm ngày thành lập lực lượng biên phòng.

Nội dung, yêu cầu Ngày Biên phòng là:
- Nâng cao ý thức cảnh giác tinh thần trách nhiệm của nhân dân các dân tộc, của cán bộ, nhân viên các cơ quan, đoàn thể ở biên giới làm tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.
- Tăng cường đoàn kết hợp đồng chiến đấu và giúp đỡ lẫn nhau giữa lực lượng biên phòng và nhân dân, giữa lực lượng biên phòng và các lực lượng khác.
- Không ngừng củng cố và phát triển tinh thần đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân hai bên biên giới chống mọi hành vi xâm phạm biên giới của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Đẩy mạnh việc thực hiện các nhiệm vụ trung tâm, đột xuất của địa phương.
- Khen thưởng bằng các hình thức thích hợp các xã và đồng bào có công trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ biên giới.
- Việc tổ chức Ngày Biên phòng hàng năm cần thiết thực có hiệu quả, bằng những hoạt động phong phú như một tập quán văn hoá tốt, không phô trương, lãng phí.
Đến Luật Biên giới quốc gia 2003 đưa ra xác định “Ngày Biên phòng toàn dân”.
- Điều 28 Luật Biên giới quốc gia 2003 quy định: ngày 03 tháng 3 hàng năm là “Ngày biên phòng toàn dân”.
- Điều 14 Nghị định số 140/2004/ NĐ-CP ngày 25/6/2004 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Biên giới quốc gia 2003 quy định cụ thể là Ngày biên phòng toàn dân được tổ chức thực hiện hàng năm trong phạm vi cả nước với những hoạt động để giáo dục ý thức pháp luật về biên giới quốc gia, tôn trọng biên giới, chủ quyền lãnh thổ, tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành, chính quyền và nhân dân khu vực biên giới trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới. Người đứng đầu các cấp, các ngành, các địa phương có trách nhiệm tổ chức thực hiện Ngày biên phòng toàn dân theo sự chỉ đạo của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Quốc phòng. Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng có trách nhiệm tham mưu cho Bộ Quốc phòng chỉ đạo, hướng dẫn các cấp, các ngành, các địa phương tổ chức thực hiện Ngày biên phòng toàn dân.

Câu 5: Anh hùng liệt sỹ Công an nhân dân vũ trang (nay là BĐBP) Trần Văn Thọ hy sinh năm nào? Ở đâu? Trần Văn Thọ được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm nào? Về thành tích gì?

Anh hùng liệt sỹ Công an nhân dân vũ trang (nay là BĐBP) Trần Văn Thọ hy sinh năm 1961 tại Leng Su Sìn, xã Sính Phình, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu (nay là bản Leng Su Sìn, xã Chung Chải, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên).

Ngày 1/1/1967 Chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã ký Lệnh số 118/LCT tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Trần Văn Thọ vì “đã có nhiều thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua chống Mỹ cứu nước”, vào sổ vàng số 37.

Câu 6: Những năm gần đây, cán bộ, chiến sĩ BĐBP có nhiều chương trình, việc làm có ý nghĩa đối với nhân dân các dân tộc nơi biên giới, hải đảo. Đồng chí (anh, chị) hãy kể tên và suy nghĩ của mình về việc làm đó?

Những việc làm thiết thực ấy đã để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong lòng dân, giúp bà con biên giới xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống, củng cố lòng tin của nhân dân các dân tộc đối với Đảng, Nhà nước và quân đội... Qua đó, hình ảnh người chiến sĩ biên phòng ngày càng trở nên thân thiết, gần gũi, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đồng bào các dân tộc cũng coi nhiệm vụ của đồn biên phòng là công việc của mình. Già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng các dân tộc tích cực bảo ban con cháu, vận động bà con tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh trật tự khu vực biên giới.

Thực tế cho thấy, nơi nào coi nhẹ công tác tuyên truyền vận động quần chúng, xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh, nơi đó tình hình an ninh, trật tự dễ phức tạp, lực lượng phản động có điều kiện hoạt động xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; kích động, lôi kéo bà con dân tộc, tổ chức khiếu kiện, chia rẽ mối đoàn kết toàn dân. Ngược lại, ở đâu coi trọng thực hiện tốt công tác tuyên truyền vận động quần chúng, quan tâm chăm lo xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh, bảo đảm an sinh xã hội cho quần chúng nhân dân ở đó “thế trận lòng dân” được tăng cường, các thế lực phản động không có “đất” để chống phá. Đó chính là một “vũ khí” sắc bén không kém phần quan trọng của BĐBP trong đấu tranh, đẩy lùi âm mưu của diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch trên địa bàn biên giới, hải đảo trong mọi tình huống.

Câu 7: Đồng chí (anh, chị) hãy viết một đoạn văn (không quá 2000 từ) nói lên cảm xúc của mình về người chiến sĩ Biên phòng hoặc viết một tấm gương người tốt, việc tốt ở đơn vị, địa phương mình trong xây dựng và bảo vệ biên giới?

Viết về hình ảnh người chiến sỹ bộ đội Biên phòng nơi biên cương của Tổ quốc, nhà thơ Chế Lan Viên đã có những vần thơ sau:

Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn lau trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh.

Biên cương, hải đảo - những vùng lãnh thổ vô cùng thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam. Từ muôn đời nay, bao thế hệ nhân dân, chiến sĩ đã đổ mồ hôi, xương máu để gìn giữ vẹn tròn bờ cõi của đất nước. Đấy là nguồn cảm hứng dạt dào cho nhiều người cầm bút trong đó có các nhà thơ. Đã có không ít bài thơ giàu chất sống, nhiều cảm xúc viết về biên giới hải đảo mà người lính quân hàm xanh là nhân vật trung tâm.

Trong tâm hồn mỗi người dân, tình yêu biên giới luôn là phần sâu sắc không gì có thể thay thế được. Mỗi dòng suối, ngọn núi ở đây, dù bé nhỏ đến đâu cũng là Tổ quốc, là tài sản vô giá ông cha ta để lại. Những dân binh, chiến binh muôn đời nay đã kế tiếp nhau bền bỉ, can trường giữ gìn cương vực của non song.

Vùng đất, vùng biển phên dậu mãi mãi là ký thác thiêng liêng và vững bền của nhân dân về sự toàn vẹn lãnh thổ và trường tồn của đất nước. Xưa cũng thế và nay cũng thế; không thế lực nào, dù hung bạo mưu mô đến mấy làm suy chuyển, dập tắt được. Nguyễn Đình Chiến trong bài thơ “Mùa xuân nơi hẹn gặp” đã viết:

Biên cương ơi ký thác của bao đời
Người sống để cháu con về hái lộc
Thơ đã viết đầm đìa trên cột mốc
Câu thơ nào tâm huyết của riêng tôi…

Nói đến biên phòng không thể không nhắc đến những cột mốc hữu hình và vô hình trên những cánh rừng, dòng sông hay vùng biển đảo xa xôi. Người lính biên phòng cũng là những cột mốc chủ quyền của đất nước cũng như Tổ quốc là điểm tựa vĩnh hằng của chiến sĩ ta. Bằng tâm thức như vậy, Vũ Hiệp Bình đã khẳng định:

Với Tổ quốc, chúng tôi là cột mốc
Với chúng tôi, Tổ quốc là điểm tựa ngàn đời
(Tổ quốc, biên giới và chiến sĩ biên phòng).

Không gì đẹp hơn khi những chiến sĩ mang quân hàm lá cây là núi của núi, là sông của sông, là ruộng của ruộng, là đất của đất, là nước của nước nơi cương vực:

Đất vẫn đất nâng cao thế đứng
Và đồng đội chúng tôi
Như cột mốc ngàn đời
Làm biên giới đất đai
(Vương Trọng - Sáng chào cờ ở một đồn biên phòng).

Con đường trập trùng, đầy gian nan thử thách mà những người lính ấy đi qua là những hành trình đỏ gìn giữ bình yên và gieo mầm cuộc sống mới nơi biên cương như Phạm Vân Anh đã phác họa rất đẹp: Đèo Sa Mù mây bay

Chúng tôi đi trong hành trình đỏ
Gieo xuống đất biên thùy hạt ban mai rực rỡ
(Hành trình đỏ)

Ở một góc nhìn khác của Phạm Thanh Khương, hành trình đỏ ấy mang những thương nhớ lo toan, khao khát ước mong của người lính hải đội biên phòng trên biển:

Những con tàu xé sóng ra đi
Để lại bãi bờ những nét cười giấu trong nỗi nhớ
Giấu lo lắng trong từng nhịp thở
Nuôi ước mơ, nuôi khao khát con người
(Qua triền con sóng)

Có đến với bộ đội biên phòng mới thấu hết những khó khăn vất vả và những thiệt thòi, hi sinh thầm lặng của họ. Mỗi bước đi là mỗi gian lao, mỗi ngày sống là mỗi thử thách trước khắc bạc thiên nhiên, trước nghiệt ngã cuộc sống. Thơ Nguyễn Đức Lợi cho ta một hình dung về mùa hè tây bắc đất nước, nơi chưa bao giờ vắng bóng chiến sĩ biên phòng:

Nay biên giới đang vào mùa bọ chó
Ruồi vàng bay rám cả vạt giang
Tai nóng giẫy từng cơn, từng cơn gió
Từ bên kia đất bạn đốt sang
(Thư gửi từ biên giới)

Trần Đăng Khoa có cái nhìn rất sâu, rất cảm và đầy chia sẻ nhân văn về những người lính biên phòng ở nơi núi cao heo hút:

Những mùa đi thăm thẳm
Trong mung lung chiều tà
Có bao chàng trai trẻ
Cứ lặng thinh mà già
(Đỉnh núi)

Đâu chỉ trong chiến tranh mà ngay cả thời bình người lính vẫn phải chịu những thiệt thòi, lặng lẽ cống hiến hi sinh tuổi thanh xuân cho đất nước. Cuộc sống đời thường của người lính biên phòng cũng đầy gian khổ, thiếu thốn. Trong một lần lên biên cương, Hữu Thỉnh đã xúc động viết:

Gạo thường lên sớm, thư thời chậm
Đài mở thâu đêm đỡ vắng hầm
Bao năm không thấy màu con gái
Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em.
(Thư mùa đông)

Cái sự nhầm kia của người lính trẻ làm cho ta nghẹn ngào rưng rưng. Trong bài thơ “Trở về Bát Xát”, Lê Đình Cánh lại giúp ta thấy rõ hơn cảnh ngộ, gọi là thân phận cũng được của một cán bộ biên phòng:

Về đâu bác trưởng đồn thâm niên thượng úy
Ngôi sao cầu may chưa đậu xuống vai già
Thân gà trống ngại ngùng đi bước nữa/
Điếu cày khuya lưỡng lự vào ra!
(Trở về Bát Xát)

Giữa muôn vàn thử thách gian khó, hình ảnh chiến sĩ biên phòng hiện lên thật đáng yêu, đáng trân trọng. Những người lính ấy, vừa là chiến sĩ, vừa là thầy giáo, thầy thuốc và cũng là cán bộ thôn bản nữa. Thầy giáo biên phòng hiện lên trong thơ Trương Hữu Thiêm thật bình dị và gần gũi:

Chấm bài nào thầy cũng cho điểm cao
Nếu không thế mai họ không đến lớp
Bài văn tả có người hồn nhiên viết
“Thầy giáo biên phòng chăm như con trâu”
(Lớp học biên phòng)

Lính biên phòng là những người rất tình cảm. Tôi đã đến nhiều đồn biên phòng ở cả ba miền Bắc Trung Nam và cả biển đảo nên rất thấu hiểu điều đó. Những gì tôi cảm nhận được trong thơ viết về các anh trước hết bắt nguồn từ hồi ức kỷ niệm về bộ đội biên phòng sau các chuyến lên rừng xuống biển rất nhiều ấn tượng.

Khi đọc những vần thơ viết về sự gian lao mà cũng đầy hào hùng về những chiến sỹ Biên phòng nơi biên cương, hải đảo xa xôi của tổ quốc tôi chợt nghĩ đến hình ảnh thế hệ trẻ hôm nay. Các anh đã chiến đấu bảo vệ từng tấc đất, dòng sông, ngọn núi nơi biên cương, đem lại sự vui tươi, an lành cho những người thân, gia đình và những người xung quanh. Sự cống hiến của họ vừa mang trong mình những lí tưởng, mục đích cao đẹp, vừa lí trí.

Thế hệ trẻ hôm nay có nhiệt huyết và thực sự họ đã, đang và sẽ đóng góp vào thành tựu chung của đất nước. Những bước chuyển mình của đất nước này có sự đóng góp của họ và công lao của họ đang được cả xã hội ghi nhận. Minh chứng là những giải thưởng, những buổi vinh danh đều xuất hiện hình ảnh những người trẻ năng động, khát khao cống hiến cho xã hội. Sự cố gắng của họ hôm nay đóng góp vào vị thế của một Việt Nam hùng cường trong tương lai.

Nhưng bên cạnh những con người như thế không ít những người trẻ họ thực sự lạc lối, hoang mang trong việc chọn lựa cách thức đóng góp cho đất nước. Họ đang tham gia vào những hoạt động mà họ không biết được bản chất của hoạt động đó trên thực tế, họ thực sự trở thành những con rối trong tay những nhà “Dân chủ”, những nhà “tự do” giả hiệu. Chúng đang biến những trái tim nóng của những con người trẻ thành những con người tiên phong trong chiến dịch cổ súy cho những giá trị mới mà chính họ cũng không hiểu được giá trị ấy mới đến đâu, nó có lợi gì cho đất nước này.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây